Thứ Tư, 15 tháng 2, 2017

Tôn trọng thể chế chính trị của nhau - nền tảng của mối quan hệ Việt - Mỹ


Hơn hai thập kỷ nay, quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt được những bước tiến tích cực và thực chất. Kết quả đó do nhiều nguyên nhân, song cơ bản nhất do hai bên tôn trọng thể chế chính trị của nhau. Đây là cơ sở quan trọng để hai nước tiếp tục phát triển quan hệ trong thời gian tới.
Kể từ sau thời điểm bình thường hóa quan hệ và thiết lập quan hệ ngoại giao (12-7-1995), Việt Nam và Hoa Kỳ đã không ngừng xây dựng, phát triển quan hệ hợp tác và từ năm 2013, hai nước trở thành đối tác toàn diện, trên tinh thần “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”.
Tuy nhiên, để đi đến kết quả đó, giữa hai nước đã phải trải qua một quá trình đầy chông gai. Lịch sử từng biết đến những câu chuyện - như những cơ duyên - liên quan đến hai nhà lãnh đạo nổi tiếng của hai dân tộc. Ngài Thomas Jefferson - Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ, tác giả của Tuyên ngôn Độc lập năm 1776, người sáng lập ra đảng Dân chủ - Cộng hòa (tiền thân của hai Đảng Dân chủ và Cộng hòa ở Mỹ hiện nay) - khi còn là một nhà canh nông, đã từng tìm hiểu về nông nghiệp Việt Nam và đã cố gắng để đưa một giống lúa của Việt Nam về trồng ở trang trại của mình. Đó là câu chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh - người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tác giả của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam - trong quá trình tìm đường cứu nước, vào năm 1913 đã đến Boston - nơi khởi đầu của cuộc cách mạng giành độc lập ở Hoa Kỳ, để tìm hiểu về nước Mỹ. Và sau này, khi đã là Chủ tịch của nước Việt Nam mới, trong phần mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” đọc trước quốc dân, đồng bào ngày 02-9-1945, Người đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại, trong đó có tư tưởng trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc cũng như chế độ chính trị của đất nước, v.v.
Song, lịch sử cũng chứng kiến những sự kiện, đáng ra đã làm cho hai dân tộc xích lại gần nhau, nhưng đã bị phía Hoa Kỳ bỏ lỡ. Hoa Kỳ và Việt Nam từng là đồng minh trên mặt trận chống phát-xít. Ngay trong những ngày Cách mạng Tháng Tám diễn ra, bộ đội Việt Minh đã cứu giúp một trung úy phi công Mỹ bị quân Nhật bắn rơi và bàn giao cho phái bộ Hoa Kỳ ở Côn Minh (Trung Quốc). Quân đội Mỹ cũng từng cử một đội đặc nhiệm của Cơ quan Tình báo Quân sự (OSS) nhảy dù xuống Việt Bắc huấn luyện giúp Viêt Minh về chiến thuật, cách sử dụng điện đài, chất nổ,… phục vụ cho cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp. Sau khi Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương thiết lập quan hệ “hợp tác toàn diện” với Hoa Kỳ. Người từng gửi 14 lá thư cho phía Hoa Kỳ, đặc biệt là cho Tổng thống Truman, đề nghị họ “ủng hộ nền độc lập còn non trẻ của Việt Nam”, v.v. Tuy nhiên, thiện chí đó đã không được đáp ứng. Nguyên nhân của nó, như lời Tổng thống Hoa Kỳ, Barack Obama khi sang thăm Việt Nam (tháng 5-2016) khẳng định: “Lẽ ra, cuộc chiến nhằm lật đổ chế độ thực dân đã khiến nhân dân hai nước nhanh chóng đoàn kết với nhau hơn. Tuy nhiên, thay vì thế, nỗi lo sợ chủ nghĩa cộng sản, chiến tranh Lạnh, và sự thù địch đã đẩy hai bên vào một cuộc chiến…”. Chính từ việc không tôn trọng con đường mà nhân dân Việt Nam lựa chọn, Hoa Kỳ đã đứng về phía Pháp, giúp đội quân thực dân chống lại Việt Minh để tiêu diệt “phong trào giải phóng dân tộc do những người cộng sản lãnh đạo” và “ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản bành trướng ở Đông Dương”, v.v. Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã làm hết sức mình để đoàn kết lực lượng và kiến tạo hòa bình, song vẫn phải đương đầu với Quân đội Pháp được Mỹ khuyến khích và viện trợ cả về tiền bạc, vũ khí và con người. Cho đến tháng 5-1948, khi Hoa Kỳ đã trực tiếp viện trợ cho quân viễn chinh Pháp, Người vẫn tin tưởng ở nhân dân Mỹ: “Dân tộc Mỹ đã từng chiến đấu anh dũng để được độc lập và đã có độ lượng công nhận nền độc lập của Phi Luật Tân, tất nhiên phải đồng tình với nước Việt Nam tranh đấu giành độc lập”. Sau này, khi chính quyền Mỹ đã trực tiếp đưa quân vào xâm lược miền Nam, quyết tâm đưa Việt Nam “trở lại thời kỳ đồ đá”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tin về một giải pháp hòa bình giữa hai nước. Trong thư trả lời Tổng thống Mỹ Richard Nixon, ngày 23-8-1969, Người nhấn mạnh: “Với thiện chí của phía Ngài và phía chúng tôi, chúng ta có thể đi tới những cố gắng chung để tìm một giải pháp đúng đắn cho vấn đề Việt Nam”, v.v. Sau khi hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, nhân dân Việt Nam quyết tâm thực hiện mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: xây dựng lại đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Nhưng, do không chịu thừa nhận chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam và với thái độ thù địch, Mỹ và phương Tây thực hiện chính sách “bao vây, cấm vận”, hòng làm cho Việt Nam bị cô lập và sụp đổ! Thế nhưng, với đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã đoàn kết, ra sức phấn đấu đưa đất nước vượt qua mọi thử thách; đồng thời, tiến hành công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa giành được nhiều thắng lợi.
Vượt qua bao vây, cấm vận, quan hệ bang giao của Việt Nam ngày càng rộng mở với nhiều quốc gia, trong đó có cả Hoa Kỳ. Trên cơ sở chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam khẳng định chính sách nhất quán coi trọng quan hệ với Hoa Kỳ; đưa quan hệ giữa hai bên ngày càng phát triển, đóng góp quan trọng vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở châu Á - Thái Bình Dương. Hai mươi hai năm qua, với tinh thần tôn trọng con đường của nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ, hợp tác cùng có lợi, giữa hai nước đã có những đột phá về ngoại giao, với nhiều cuộc thăm viếng, kể cả ở cấp cao nhất. Các Tổng thống Mỹ: Bill Clinton, George Bush, Barack Obama tới thăm Việt Nam. Ở chiều ngược lại, các Chủ tịch nước của Việt Nam: Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang cũng đã tới thăm Hoa Kỳ. Các mối quan hệ, hợp tác song phương, nhất là về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế, môi trường, an ninh - quốc phòng đạt được những bước tiến mạnh mẽ. Đặc biệt, quan hệ kinh tế, thương mại có sự phát triển vượt bậc; từ con số không, Hoa Kỳ trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, là một trong những nhà đầu tư lớn nhất, là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Giữa hai nước cũng có sự phối hợp hiệu quả trong khắc phục, xử lý chất độc hóa học tồn lưu sau chiến tranh, nhất là việc xử lý ô nhiễm đi-ô-xin tại các sân bay: Đà Nẵng, Phù Cát, Biên Hòa, v.v.
Tuy nhiên, vẫn còn đó những vấn đề tồn tại cần giải quyết, nhất là những cáo buộc đối với Việt Nam xung quanh vấn đề: dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, của các tổ chức và cá nhân từ phía Hoa Kỳ. Trong các bản “Phúc trình thường niên về tình hình tự do tôn giáo quốc tế” do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố, phần nói về Việt Nam thường có những nhận định sai lệch so với thực tiễn diễn ra trên đất nước Việt Nam. Phía Việt Nam đã đấu tranh bác bỏ, với những lý lẽ và bằng chứng xác đáng, nhưng tình hình vẫn chưa được cải thiện. Đặc biệt, một số tổ chức có trụ sở đặt tại Hoa Kỳ, thường có nhiều hoạt động chống phá chế độ chính trị của Việt Nam, nhưng phía Hoa Kỳ chưa thể hiện hết vai trò, trách nhiệm của mình. Chẳng hạn “Việt Tân”, là một tổ chức khủng bố, đặt trụ sở tại SanJose (California), đã gây ra nhiều nợ máu đối với nhân dân Việt Nam và cả kiều bào Việt Nam ở nước ngoài, nhưng vẫn được tự do hoạt động. Gần đây, chúng tăng cường các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, như: mở các khóa đào tạo trực tuyến để huấn luyện cách chế tạo bom xăng, sử dụng chất nổ,… phục vụ cho các hoạt động ám sát, khủng bố. Trong thời gian xảy ra sự cố môi trường biển miền Trung, Việt Tân đã tập trung kích động biểu tình, gây rối, đập phá máy móc,… mưu toan tạo ra một cuộc “cách mạng cá”, nhưng đã thất bại. Bộ Công an Việt Nam đã có đầy đủ bằng chứng khẳng định: Việt Tân là một tổ chức khủng bố. Nhưng phía Hoa Kỳ, dựa trên những thông tin sai lệch, coi nó “là một tổ chức mang tính hòa bình, ủng hộ cải cách dân chủ”!?
Không chỉ thế, đối với cái gọi là “Tổ chức Giám sát nhân quyền” (HRW) - một tổ chức có trụ sở tại thành phố New York được Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ một phần về tài chính - thường có nhiều tuyên bố sai trái về Việt Nam, nhưng phía Hoa Kỳ vẫn bao che, dung dưỡng. Tự coi mình là tổ chức Giám sát về nhân quyền quốc tế, nhưng HRW không hề thể hiện vai trò đó ở Việt Nam. Họ không đếm xỉa gì đến tình cảnh hàng triệu người Việt bị phơi nhiễm chất độc da cam/đi-ô-xin, hay tình hình bom, mìn, vật liệu nổ do hậu quả của chiến tranh để lại. Họ cũng “không biết” đến những thành tựu của Việt Nam trong nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và những kết quả đạt được trong xóa đói giảm nghèo, trong thực hiện “Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ” của Liên hợp quốc. Họ thường xuyên đưa ra những tuyên bố hoàn toàn không đúng với thực tế diễn ra ở Việt Nam, như cho rằng: “Việt Nam đàn áp một cách có hệ thống những người bất đồng chính kiến”; thậm chí còn tổ chức trao “giải thưởng nhân quyền” cho một số người luôn tìm cách phá hoại công cuộc đổi mới đất nước, mà họ gọi là “những người tích cực đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam”, v.v.
Giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, mặc dù còn có những khác biệt, nhưng quan hệ giữa hai nước đã trở thành đối tác toàn diện. Phía Hoa Kỳ, lần đầu tiên đã mời Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng sang thăm và đón tiếp với nghi thức đón tiếp nguyên thủ quốc gia. Điều đó chứng tỏ, Hoa Kỳ đã tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Thực vậy, trong Văn kiện “Tầm nhìn chung” được ký kết giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Barak Obama vào tháng 7-2015 tại Washington, cả hai bên đều khẳng định nguyên tắc “Tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Thiết nghĩ, đây vừa là nền tảng của mối quan hệ giữa hai nước, vừa là tiêu chí để hai bên giải quyết mọi tồn tại, bất cập, làm cho mối quan hệ giữa hai bên không ngừng phát triển, vì hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc của nhân dân hai nước. Đồng thời, còn là cơ sở để bác bỏ mọi sự hiềm kích của các thế lực thù địch, chỉ nhìn vào sự khác biệt và khoét sâu nó, hòng cản trở quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Nhưng họ đã, đang và chắc chắn sẽ bị thất bại nếu vẫn tiếp tục những âm mưu và hành động “cố đấm ăn xôi”!.
VINH HIỂN

Lộ mặt bọn cơ hội, bất mãn chính trị chống phá đảng và chế độ ta


Hiện nay, có thể chỉ ra một số dạng cơ hội và bất mãn chính trị ở nước ta như sau:
Thứ nhất, cơ hội và bất mãn chính trị là những phần tử có lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng, dao động, thiếu niềm tin. Những phần tử này luôn hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do bản chất cơ hội, lập trường mơ hồ, không vững vàng, kiên định, nên khi cách mạng gặp khó khăn, bất lợi thì hoang mang, dao động, thỏa hiệp, phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, những quan điểm sai trái, thù địch, quay lại chống phá cách mạng, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống phá Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ hai, họ là những phần tử luôn lợi dụng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để mưu cầu lợi ích riêng. Những phần tử này thường che dấu bộ mặt thật, ít bày tỏ quan điểm, chính kiến một cách rõ ràng, thể hiện thái độ chính trị trung dung, thỏa hiệp, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, miễn là “dĩ hòa vi quý”, có lợi cho bản thân; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng. Chúng tìm mọi cách vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho bản thân một cách không lành mạnh. Chúng lợi dụng cả chủ trương, chính sách lẫn sự “móc ngoặc với một số người có chức, có quyền” để trục lợi, tiến thân phục vụ cho tham vọng chính trị của mình; lợi dụng cả những thiếu sót, sơ hở của chính sách để công kích, chống phá, gây mất đoàn kết nội bộ, hạ uy tín của Đảng, bôi nhọ, nói xấu chính quyền. Chúng lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” gây chia rẽ nội bộ, chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc với tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, họ là những phần tử đã bị suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, hoặc bị kỷ luật, không thăng tiến được, không kiếm được lợi lộc, sinh ra bất mãn, bị các thế lực thù địch tác động, lôi kéo, mua chuộc. Hầu hết các phần tử này có những tham vọng về chính trị, về chức quyền và khi những tham vọng đó không được đáp ứng, họ trở thành phần tử bất mãn với tập thể, với tổ chức, quay sang “kiếm chác, làm ăn”. Khi có sự móc nối, lôi kéo của các thế lực thù địch, các phần tử này trở thành lực lượng chống lại Đảng và chế độ độ rất nguy hiểm. Họ triệt để lợi dụng xu thế dân chủ hóa, các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội, tranh thủ sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch ở nước ngoài dưới các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, ráo riết tập hợp lực lượng, từng bước công khai hóa các tổ chức chính trị đối lập dưới hình thức các hội, nhóm để tiến tới thực hiện mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ tư, họ là những phần tử thực dụng về kinh tế và muốn thể hiện mình trước tổ chức và tập thể. Những phần tử này sẵn sàng rẽ theo bất cứ con đường nào để có lợi ích kinh tế lớn hơn cho mình; đồng thời, thường tự cho là người có học, có hiểu biết, muốn tỏ ra là người nổi trội, muốn thể hiện những “phát kiến” mới, có tài lôi kéo, tổ chức, gây thanh thế. Khi những mục đích kinh tế không đạt, những “phát kiến” của mình không được chấp nhận, do những nguyên nhân khác nhau; hoặc các mối quan hệ kinh tế không trong sáng bị phát hiện, ngăn chặn, các phần tử này thể hiện thái độ chống đối Đảng, chế độ; phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng công khai để có thể mong nhận được sự tài trợ từ các tổ chức phản động ở nước ngoài, cố tình nuôi tham vọng nổi tiếng.
Những dạng thức biểu hiện trên chưa phải là tất cả, chưa phản ánh hết tính chất đa dạng, phức tạp của cơ hội và bất mãn chính trị ở nước ta hiện nay, song đó là những dạng thức biểu hiện cơ bản, đang hàng ngày hàng giờ chống phá Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vấn đề cần chú ý hiện nay là, các thế lực thù địch đã và đang ra sức lợi dụng, sử dụng các các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị làm lực lượng xung kích, tiên phong để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam.
Nhân văn Việt

Thứ Ba, 7 tháng 2, 2017

Quân đội nhân dân Việt Nam - trường học lớn để thanh niên rèn luyện, trưởng thành: Truyền thống và thực tế

QĐND - Không phải ngẫu nhiên mà Quân đội nhân dân Việt Nam được xã hội thừa nhận là một trong những môi trường tốt nhất để thanh niên rèn luyện, trưởng thành. Môi trường ấy được hình thành từ những giá trị bản chất truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam đã hun đúc qua hơn 70 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, đồng thời ngày nay tiếp tục không ngừng hoàn thiện.
“Như một trường học lớn” - lời khen của Bác Hồ
Tháng 12-2000, đến dự và phát biểu tại Đại hội Thi đua Quyết thắng toàn quân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “... Coi quân đội “như một trường học lớn”, đó là từ của Bác Hồ. Quân đội là trường học để bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ trở thành những con người mới xã hội chủ nghĩa; giáo dục cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng lúc ở trong quân đội thì luôn nêu cao chủ nghĩa anh hùng, hoàn thành tốt nhiệm vụ của người quân nhân, khi phục viên, chuyển ngành thì tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ mới, tích cực xây dựng và bảo vệ đất nước”.
Phẩm chất tốt đẹp ấy không tự nhiên mà có mà nó bắt nguồn từ chính mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta, một đội quân cách mạng ra đời từ nhân dân, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Bản chất tốt đẹp ấy được đúc kết trong lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".
Chính vì thế, không chỉ những năm kháng chiến mà cả trong thời bình, trở thành người chiến sĩ luôn là một trong những ước mơ, hoài bão của biết bao thế hệ thanh niên. Để đủ cân nặng vào quân ngũ, không ít người đã từng uống thêm nước, bỏ thêm gạch, đá vào túi quần. “Lúc còn thơ ngắm nhìn anh bộ đội. Thấy ngôi sao sáng ngời con thích lắm mẹ ơi”, “Lá còn xanh như anh đang còn trẻ. Lá trên cành như anh trong đoàn quân”… - khát vọng trở thành anh bộ đội cũng từng đi vào bao ca khúc của tuổi trẻ.
Người lính mang trên mình bộ quân phục không đơn giản là thay đổi bộ trang phục dân sự sang quân sự mà là sự thay đổi về chất, mang trên mình mục tiêu, lý tưởng, trách nhiệm sống, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong và những kiến thức kỹ năng cần thiết; cũng là mang trên mình phẩm chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” từ anh Vệ quốc quân, người chiến sĩ Điện Biên đến anh Giải phóng quân và bao lớp cha anh khác…
Nơi rèn luyện toàn diện
Cụ thể hóa nội hàm của vấn đề “quân đội như một trường học lớn”, trong hội thảo kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí Nguyễn Đắc Vinh, khi đó là Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (nay là Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An) đã phân tích: Quân đội nhân dân Việt Nam đã và đang tiếp tục khẳng định là trường học lớn của tuổi trẻ: Rèn chính trị, rèn kỷ luật, rèn thể chất, rèn kỹ năng, rèn bản lĩnh...
Là trường học bồi dưỡng chính trị, thanh niên quân đội được rèn luyện phẩm chất chính trị, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, có ý thức chính trị sâu sắc, hiểu thấu đáo trách nhiệm của thanh niên đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có nhận thức chính trị sâu sắc, có đủ bản lĩnh để kịp thời phát hiện và “miễn dịch” trước các thủ đoạn “diễn biến hòa bình”.
Là trường học rèn kỷ luật, mọi thanh niên khi nhập ngũ đều được rèn luyện trong một môi trường kỷ luật nghiêm minh, có tính kỷ luật cao; mọi vi phạm đều bị xem xét làm rõ, xử lý nghiêm minh, có lý, có tình.
Là trường học rèn thể lực, thể chất, thanh niên quân đội nâng cao sức khỏe, sự dẻo dai, bền bỉ, tăng cường khả năng chịu đựng trước sự khắc nghiệt của thời tiết cũng như yêu cầu cao của nhiệm vụ.
Là trường học rèn luyện, trải nghiệm kỹ năng sống, ngoài việc thanh niên luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ, không ngại khó, ngại khổ, thanh niên quân đội còn được rèn luyện tinh thần đoàn kết, đồng tâm, đồng lòng; tương thân, tương ái, quan tâm giúp đỡ mọi người, chung tay vì cộng đồng xã hội. Qua các hoạt động thực tiễn, tuổi trẻ quân đội được trải nghiệm rất nhiều điều ý nghĩa, hiểu được giá trị của cuộc sống, tu dưỡng sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
“Môi trường hoạt động của quân đội hiện nay là cơ hội để thanh niên học tập, rèn luyện, cống hiến, trưởng thành nhanh và vững chắc với 6 phẩm chất cơ bản: Cường tráng về sức khỏe; chững chạc về phong cách; trưởng thành về nhận thức; nghiêm chỉnh về kỷ luật; thành thạo về nghiệp vụ; giao tiếp ứng xử có văn hóa”, đồng chí Nguyễn Đắc Vinh khẳng định.
Ông Lê Anh Tuấn, Phó giám đốc thường trực Trung tâm Hỗ trợ và Phát triển Thanh niên Hà Nội (Thành đoàn Hà Nội) nhận xét: “Quân đội là môi trường rèn luyện rất tốt. Những quân nhân xuất ngũ trở về rõ ràng có độ trưởng thành, chín chắn. Họ được rèn luyện, tích lũy thêm nhiều thứ mà có thể trong cuộc sống bình thường không có được. Bởi vậy nên có thực tế là các đơn vị, xí nghiệp rất thích tuyển dụng những người đã từng là quân nhân. Dưới góc độ là đơn vị đào tạo kỹ năng, tôi thấy quân đội là môi trường giáo dục rất tốt, dù thời gian rèn luyện 1,5 năm chưa phải là nhiều”.
Cách đây hơn một năm, Báo điện tử Vnexpress từng mở chuyên đề bàn về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự. Báo đã ghi nhận ý kiến của rất nhiều bạn đọc, nhiều chuyên gia, nhà quản lý, doanh nhân… khẳng định môi trường quân đội rất tốt. Bạn đọc nêu dẫn chứng, những khóa học trong quân ngũ cho trẻ em đang được phụ huynh ủng hộ chứng tỏ đây là môi trường nên để các em rèn luyện. Nhiều bạn đọc còn so sánh, khi đi làm ở nước ngoài, nhìn hồ sơ của các bạn Hàn Quốc thì thấy thường ghi "tham gia quân đội", coi đây là một niềm tự hào, một tiêu chí “tăng điểm” cho các nhà tuyển dụng.
Chỉ riêng trong 3 năm 2012-2015, các đơn vị trong và ngoài quân đội đã phối hợp tổ chức 276 lớp “Học kỳ trong Quân đội”, thu hút 24.179 học viên tham gia là các cháu từ 9-17 tuổi. Thượng tá Đinh Quốc Hùng, Trưởng ban Thanh niên Quân đội cho biết, qua các lớp học, các em có sự tiến bộ, trưởng thành, bỏ được các thói quen xấu. Nhiều bậc phụ huynh rất cảm động, bày tỏ sự vui mừng với sự chuyển biến tích cực của con em mình.
Khẳng định từ thực tế
Thực tế những năm qua, các địa phương trong cả nước luôn bảo đảm 100% chỉ tiêu được giao. Được rèn luyện trong môi trường quân đội còn trở thành nguyện vọng và lựa chọn của nhiều thanh niên đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học và cả cán bộ, công chức.
Tỷ lệ thanh niên tốt nghiệp cao đẳng, đại học nhập ngũ ngày càng cao. Năm 2015, Hà Nội đạt gần 50%, TP Hồ Chí Minh: 39%, Hải Phòng: 20,2%, Đà Nẵng: 26%, Cần Thơ: 22,2%; các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ đạt gần 10%. Năm 2016, tỷ lệ thanh niên tốt nghiệp cao đẳng, đại học nhập ngũ trong toàn quân đạt 12,1% (tăng gần 1% so với năm 2015), riêng Hà Nội đạt 54%. Ngày càng nhiều thanh niên nhập ngũ là công chức, con cán bộ và công chức.
Từ năm 2016, quân đội còn ưu tiên tuyển chọn những công dân đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng chưa có việc làm để nâng cao chất lượng và giảm đào tạo trong quân đội; chú trọng tạo nguồn cán bộ cơ sở, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số và các địa phương vùng sâu, vùng xa. Các đơn vị quân đội quan tâm dạy nghề và tạo việc làm cho bộ đội xuất ngũ, triển khai Đề án “Đổi mới và phát triển dạy nghề trong quân đội giai đoạn 2013-2020” và Đề án “Dạy nghề cho thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự và giới thiệu việc làm sau khi xuất ngũ giai đoạn 2013-2020”.
Nhiều địa phương đã có cách làm sáng tạo để tạo nguồn cán bộ như Thanh Hóa tạo nguồn, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên từ chiến sĩ người dân tộc thiểu số quê ở các huyện vùng cao biên giới để xóa bản "trắng" đảng viên. Đến nay, 100% cán bộ quân sự tại 637 xã, phường, thị trấn ở Thanh Hóa đều đã trải qua quân ngũ, nhiều đồng chí đã trở thành cán bộ lãnh đạo của địa phương. Ðảng ủy Quân khu 5 có chủ trương đề ra chỉ tiêu có từ 1% đảng viên trở lên trong số thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự và gắn xây dựng nguồn cán bộ từ bộ đội xuất ngũ. Ở Quân khu 5 có nhiều địa phương làm tốt việc này như ở xã Phước Mỹ, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, hằng năm, cấp ủy, chính quyền địa phương luôn chủ động lựa chọn từ 1 đến 2 thanh niên ưu tú có trình độ từ trung cấp trở lên đang làm việc ở xã hoặc sinh viên mới ra trường để bồi dưỡng, tạo nguồn phát triển Đảng và khuyến khích họ nhập ngũ để tạo nguồn cán bộ. Từ năm 2011 đến nay, xã có 6 đảng viên nhập ngũ đều được địa phương bố trí công việc ổn định. Tỉnh Khánh Hòa giao các cơ quan, doanh nghiệp phải có trách nhiệm tiếp nhận trở lại những quân nhân nhập ngũ là công chức, viên chức của đơn vị mình.
Trung đoàn Gia Định (Bộ tư lệnh TP Hồ Chí Minh) là một trong những đơn vị luôn có nhiều công chức, cử nhân nhập ngũ, trong đó có nhiều đồng chí đã trở thành cán bộ ở lại phục vụ quân đội lâu dài hoặc khi về địa phương đã phát triển lên cán bộ chủ tịch UBND phường, phó bí thư Đảng ủy phường, trưởng công an xã, phường…
Không phải ngẫu nhiên mà trong các nội dung tuyển dụng của nhiều cơ quan, doanh nghiệp hiện nay thường có thêm dòng thông tin “ưu tiên bộ đội xuất ngũ”. Đây không chỉ là thông tin thể hiện sự quan tâm, chính sách mà còn thể hiện sự tin cậy những người được rèn luyện qua môi trường quân đội. Ông Nguyễn Một, Tổng giám đốc truyền thông của Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải cho biết, mỗi năm công ty tuyển dụng hàng nghìn công nhân làm việc trong các nhà máy và thực tế cho thấy, những người đã qua quân ngũ luôn nằm trong số làm việc tốt nhất và được ưu tiên tuyển dụng.
Tại Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel, Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng, Tổng giám đốc Tập đoàn, đánh giá rất cao sự cần thiết rèn luyện quân sự. Từ năm 2014, tất cả những người mới tuyển dụng vào Viettel đều phải trải qua khóa huấn luyện quân sự một tháng. Khóa huấn luyện này không chỉ rèn luyện sức khỏe mà còn rèn luyện ý chí, bản lĩnh của người lính. “Năm 2014, Viettel đã tổ chức huấn luyện cho gần 2.500 nhân viên tại Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Lữ đoàn 144/Bộ Tổng tham mưu, đạt kết quả rất tốt. Các đồng chí sau khi huấn luyện đã trở nên chững chạc hơn, kỷ luật hơn, trưởng thành hơn, yêu quân đội hơn, yêu Viettel hơn. Sau khi kết thúc thành công 3 khóa huấn luyện, Viettel đã đưa huấn luyện quân sự thành hoạt động thường xuyên đối với tất cả các đơn vị. Chúng tôi coi đây là một giai đoạn quan trọng để phát triển tập đoàn”, Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định.
Thực tế trên một lần nữa khẳng định, quân đội thực sự là trường học lớn, là môi trường tạo ra rất nhiều cơ hội rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành của tuổi trẻ. Được đứng trong hàng ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ luôn là niềm vinh dự, tự hào của các thế hệ người Việt Nam như nhà thơ Vũ Cao đã viết: “Anh đi bộ đội sao trên mũ/ Sẽ mãi là sao sáng dẫn đường”.

Quân đội nhân dân Việt Nam - trường học lớn để thanh niên rèn luyện, trưởng thành

Sức hấp dẫn và niềm tin

QĐND - Đầu xuân cũng là thời điểm thanh niên cả nước nô nức hướng tới ngày hội tòng quân. Nhập ngũ, thực hiện nghĩa vụ quân sự là vinh dự và trách nhiệm của tuổi trẻ. Thế nhưng, thời gian gần đây, trước một số vụ việc đơn lẻ như chiến sĩ đánh nhau, uống rượu bia say… đã có những ý kiến ngộ nhận hoặc kích động, xuyên tạc bản chất truyền thống, môi trường tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam; có thể tạo ra sự nghi ngại không đáng có về trường học lớn của thanh niên…

Ấn tượng đẹp trong “mùa xuân đầu tiên”
Không phải so sánh đâu xa, hình ảnh tốt đẹp từ các đơn vị quân đội trong dịp Tết Nguyên đán Đinh Dậu 2017 vừa qua chính là dẫn chứng sinh động chứng minh về một trong những môi trường sống, chiến đấu, lao động và học tập nghiêm túc nhất, tốt đẹp nhất của tuổi trẻ.
Có mặt đón Tết cùng bộ đội ở nhiều đơn vị, các phóng viên Báo Quân đội nhân dân thêm một lần xúc động, tự hào, tin tưởng. Năm nay, chiến sĩ mới nhập ngũ năm 2016 hầu hết ở lại đơn vị trực Tết với tinh thần trách nhiệm cao và họ đã trải qua một cái Tết ấm áp tình đồng đội, tình quân dân, sẵn sàng chiến đấu cao, vì sự bình yên của Tổ quốc.
Đến thăm và chúc Tết Bộ đội Biên phòng và nói chuyện với bộ đội ở các đồn biên giới qua các điểm cầu trực tuyến gần đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chia sẻ trước thực tế phần lớn cán bộ, chiến sĩ đóng quân ở nơi biên giới, hải đảo, ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, "chân đạp mây bay, tóc vờn gió núi", môi trường khắc nghiệt, điều kiện sinh hoạt có nhiều khó khăn, phải xa gia đình, xa vợ con, điều kiện để quan tâm, chăm sóc gia đình rất hạn chế. Nhưng Tổng Bí thư cũng rất tin tưởng, chính môi trường khắc nghiệt, gian khổ đó đã tôi luyện nên những người lính “Bộ đội Cụ Hồ”. Tổng Bí thư rất vui mừng khi nghe báo cáo, Bộ đội Biên phòng có chủ trương mời đồng bào lên Đồn Biên phòng ăn Tết cũng như cử cán bộ ăn Tết cùng đồng bào, gắn các hoạt động mừng xuân với kỷ niệm ngày thành lập Đảng.
Tại buổi giao ban trực tuyến đầu xuân của Bộ Quốc phòng vào sáng mồng Một Tết Đinh Dậu vừa qua, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã biểu dương toàn quân làm tốt công tác trực ban, trực sẵn sàng chiến đấu, góp phần giữ vững an toàn cả vùng trời, vùng biển, đảo và trên đất liền. Toàn quân duy trì tốt tình hình trật tự an toàn giao thông, an toàn cháy nổ, không có vụ việc bất trắc nào xảy ra; các đơn vị đã chú trọng việc bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, vất vả nhưng các đơn vị ngoài tiêu chuẩn trên cấp, từ công tác tăng gia sản xuất đều bảo đảm tăng tiền ăn cho bộ đội trong những ngày Tết với mức trung bình từ 150.000-200.000 đồng/người. Nhiều đơn vị còn chuẩn bị được túi quà tặng bộ đội trị giá từ 300.000-500.000 đồng/người. Báo cáo từ các đơn vị vùng biên giới, hải đảo xa xôi cho thấy không khí đón xuân thật ấm áp. Trong những ngày Tết, các đồn, trạm lại đông vui, nhộn nhịp hơn ngày thường, luôn rộn tiếng nói cười của bà con các dân tộc trên địa bàn đến chúc Tết, chia vui. Bộ đội không chỉ có đồng đội mà còn có nhân dân là anh em ruột thịt, cùng nhau giữ bình yên cho các vùng biên cương, hải đảo, phên dậu quốc gia.
Góp sức vào việc hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy, có vai trò của những chiến sĩ trẻ đã hòa nhập, gắn bó với “gia đình lớn” Quân đội nhân dân Việt Nam trong cái Tết đầu tiên của cuộc đời quân ngũ.
Môi trường mẫu mực
Một số người thường viện dẫn quân đội là một thành tố của xã hội, chịu sự ảnh hưởng mọi mặt của xã hội, không phải là một trại lính đóng kín để rồi suy diễn “xã hội có tiêu cực gì thì quân đội có… tiêu cực đó”.
Thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Quân đội thực hiện chức năng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất trên mọi lĩnh vực, mọi địa bàn rộng lớn nhưng luôn là lực lượng tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà nước nên phải là lực lượng tinh nhuệ, sắc bén về mọi mặt, nổi trội về sức mạnh chính trị tinh thần và kỷ luật tự giác, nghiêm minh. Cho nên thực ra không phải “xã hội có tiêu cực gì thì quân đội có tiêu cực đó” mà ngược lại “nhiều tiêu cực trong xã hội bị loại trừ và “miễn dịch” trong quân đội.
Thời gian gần đây, một vài hiện tượng như uống rượu bia say không làm chủ hành vi, chiến sĩ đánh nhau… được tán phát trên mạng xã hội thời gian qua là có thật nhưng chỉ là hiện tượng cá biệt, chiếm tỷ lệ rất nhỏ và nhiều vụ việc thực ra diễn ra từ cách đây đã lâu song vẫn được một số người cố tình “hâm nóng” lại trước mỗi mùa tuyển quân nhằm tạo sự hoang mang, xuyên tạc bản chất của quân đội.
Hiện tượng đáng buồn trên chỉ là một số ít những cá nhân có tư tưởng, nhận thức lệch lạc, yếu kém. Không thể chỉ vì một vài clip mà khẳng định: “Chắc chắn hiện tượng này đã thành phổ biến tại các đơn vị”, “môi trường quân đội đã đến mức đáng lo ngại”. Trên thực tế, những vụ việc cá biệt ấy đều đã bị xử lý nghiêm minh.
Nhiều năm qua, quân đội ta luôn duy trì kỷ luật nghiêm túc và tự giác, coi kỷ luật là sức mạnh của quân đội nhưng kỷ luật của quân đội ta không phải là môi trường quân phiệt, hà khắc mà luôn nhân văn, dân chủ gắn liền với kỷ luật, xây dựng môi trường kỷ luật gắn liền với môi trường văn hóa. Có lẽ cũng hiếm có một quân đội nào mà tình đồng chí, đồng đội được đề cao trở thành tình cảm thiêng liêng, là sợi dây gắn kết mỗi con người trong tập thể. “Đơn vị là nhà, đồng đội là anh em” vừa là khẩu hiệu, vừa là thực tế tốt đẹp ở các đơn vị quân đội suốt hơn 70 năm ra đời, chiến đấu và trưởng thành.
Để hạn chế và ngăn chặn các vụ việc vi phạm kỷ luật xảy ra trong quân đội, từ năm 2000, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ban hành Quyết định số 2530/QĐ-BQP và năm 2003 ban hành Quyết định số 82/QĐ-BQP về xử lý hành vi vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, trong đó có việc xử lý các hiện tượng quân phiệt, gây gổ mất đoàn kết. Ngày 5-6-2013, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 04/QĐ-BQP nhằm một bước nâng cao tính thống nhất chặt chẽ pháp lý của văn bản trong xử lý, từ đó nâng cao công tác rèn luyện và xử lý kỷ luật trong quân đội. Ngày 26-11-2016, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tiếp tục ban hành Thông tư 192/2016/TT-BQP quy định việc áp dụng các hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục, thời hiệu, thời hạn và thẩm quyền xử lý kỷ luật trong Bộ Quốc phòng... Đặc biệt, ngày 26-12-2013, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị 788-CT/QUTW về việc phát động Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Đây là dịp để cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân phát huy hơn nữa truyền thống cách mạng của dân tộc, của quân đội, bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, ra sức phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cùng với việc tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định trên, kỷ luật quân đội ngày càng được nâng cao, các vụ việc vi phạm kỷ luật ngày càng giảm thiểu rõ rệt, đặc biệt là hiện tượng quân phiệt, gây gổ mất đoàn kết ở nhiều đơn vị đã hoàn toàn không còn.
Những năm gần đây, các đơn vị quân đội không chỉ được đầu tư xây dựng nơi ăn, ở, sinh hoạt ngày càng khang trang hơn mà còn được chú trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, vui tươi, quan tâm sâu sắc hơn tới đời sống tinh thần, chính sách hậu phương quân đội, giúp chiến sĩ trẻ vừa hoàn thành tốt nhiệm vụ vừa lập thân lập nghiệp… Có thể kể ra nhiều phong trào rất ý nghĩa như: “Tiết kiệm chi tiêu, vì ngày mai lập nghiệp” ở Quân khu 4, “Người con hiếu thảo-Nghĩa tình đồng đội” ở Quân khu 9; các buổi “Sinh nhật đồng đội”, “Chúng tôi nói về chúng tôi”, “Trao niềm tin yêu đồng đội” ở nhiều đơn vị…
Gần đây, một số địa phương đã tổ chức các cuộc hội nghị, tọa đàm giúp đỡ chiến sĩ xuất ngũ về địa phương giải quyết bài toán việc làm. Hầu hết anh em bộ đội xuất ngũ đều ghi nhận môi trường quân đội đã giúp họ tiến bộ, trưởng thành, thời gian quân ngũ mang lại nhiều hành trang quý giá.
Niềm tin ở trường học lớn
Sau mỗi mùa huấn luyện, Báo Quân đội nhân dân lại nhận được nhiều ý kiến phản hồi của các chiến sĩ trẻ và thân nhân về các đơn vị. Xin được trích dẫn lời tâm sự của bác Nguyễn Văn Bảo ở xã Bạch Long, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định sau khi lên thăm con trai út là Nguyễn Văn Long, chiến sĩ Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 141 (Sư đoàn 312, Quân đoàn 1) trong dịp Tết vừa qua. Bác Nguyễn Văn Bảo viết: “Được gặp con sau chuỗi ngày xa cách, vợ chồng chúng tôi rất mừng và hạnh phúc khi trông thấy cháu trưởng thành, chững chạc hơn nhiều so với thời gian trước khi vào quân ngũ. Chúng tôi được đồng chí chính trị viên đại đội đón tiếp ân cần chu đáo, được trực tiếp đi tham quan phòng giao ban của đại đội, bàn thờ Bác Hồ được trang trí sinh động và đều là sản phẩm từ bàn tay của bộ đội. Chúng tôi cũng được nghe kể về phong trào tiết kiệm phụ cấp giúp đỡ người thân, đồng đội gặp khó khăn; được xem hội thi gói bánh chưng của đơn vị. Nhìn những chiếc bánh chưng vuông vức, đẹp đẽ đều do bộ đội, trong đó có con trai chúng tôi gói buộc, vợ tôi trào nước mắt xúc động vì vui mừng, trước đây ở nhà, cháu chưa hề biết gói bánh chưng, chưa biết lo cho người khác”. 
Tương tự, bác Nguyễn Thị Mão ở xóm 2, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế khi đến thăm con trai đang công tác ở Trung đoàn 335, Sư đoàn 324 (Quân khu 4) cũng xúc động viết thư gửi về tòa soạn: “Trở về từ đơn vị của cháu nhưng niềm vui trong tôi vẫn còn nguyên vẹn. Trước hết, tôi cảm ơn những tình cảm chân thành, tình đồng chí, đồng đội mà anh em trong đơn vị dành cho con trai tôi. Khi đến đơn vị, được ngắm nhìn cảnh quan môi trường, nơi sinh hoạt, ăn ở, nơi huấn luyện, tôi rất bất ngờ. Toàn đơn vị như một công viên, không khí trong lành, với nhiều vườn hoa, cây cảnh, hòn non bộ, cá bơi tung tăng. Từ ngoài cổng đi vào là hàng cây xanh thẳng tắp, đường đổ bê tông, vệ sinh sạch sẽ, mọi người gặp nhau giơ tay chào từ xa. Trong khuôn viên có khu vui chơi thể thao, gồm: Bóng bàn, cầu lông, sân bóng chuyền, những hàng ghế đá để các chiến sĩ ngồi ca hát, viết thư... Khi gặp con, tôi rất vui mừng, cháu mới nhập ngũ một năm mà thấy rắn rỏi, khỏe mạnh, tác phong nhanh nhẹn, tự tin và biết cư xử tình cảm hơn, bày tỏ lòng hiếu thảo. Tôi thấy rất yên tâm về môi trường mà cháu đang công tác...”.
Những ý kiến, tình cảm ấy phần nào đã nói lên hình ảnh tốt đẹp về một trong những môi trường tốt nhất để thanh niên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành, đồng thời đang là môi trường có sức hấp dẫn lớn đối với tuổi trẻ. Môi trường ấy vẫn đang ngày càng được hoàn thiện hơn và thực tế đang là câu trả lời xác đáng cho những ý kiến phiến diện, chủ quan hoặc cố tình xuyên tạc về Quân đội nhân dân Việt Nam-trường học lớn của thanh niên.

Thứ Hai, 6 tháng 2, 2017

Tăng cường sức đề kháng để phòng, chống văn hóa xấu độc, ngoại lai

QĐND - Không rùm beng ồn ĩ, không hô hào, kích động ào ạt, mà cuộc “xâm lăng văn hóa” diễn ra từ từ, ngấm ngầm, dai dẳng, nhưng vô cùng tai hại. Nếu không sớm nhận diện, tỉnh táo và có biện pháp phòng ngừa từ xa, văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ đứng trước thử thách “sinh tử” bởi “cuộc chiến mềm” đầy mưu mô, tính toán của các thế lực thù địch.

Sở dĩ người ta ví sự “xâm lăng văn hóa” như một “cuộc chiến mềm” bởi xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng của văn hóa. Văn hóa là gốc rễ, là cội nguồn làm nên sức mạnh nội sinh và sức sống của mỗi dân tộc, đồng thời được ví như “tấm thẻ căn cước”, “chứng minh thư” để nhận diện giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Quá trình phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập với thế giới ngày càng sâu rộng, bên cạnh tiếp thu, hấp thụ những giá trị, tinh hoa văn hóa của nhân loại, nước ta đang phải đối mặt với một thách thức, nguy cơ không nhỏ. Những năm gần đây, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của ông cha bị đảo lộn, nhiều hành vi phản văn hóa mới xuất hiện với tần suất lớn, mật độ dày và nhất là môi trường văn hóa xã hội đang bị “ô nhiễm nặng nề” đã và đang trở thành nỗi bất an đối với vận mệnh quốc gia, dân tộc và tương lai đất nước. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do cuộc “xâm lăng văn hóa” nhằm vào nước ta đang tấn công từ nhiều phía, từ nhiều con đường, thông qua nhiều hình thức, âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc.
Tại sao trong thời gian qua, dư luận hết sức băn khoăn bởi một bộ phận giới trẻ sa đà vào lối sống “gấp”, sống “thử”, sống co ro vào cái tôi nhỏ nhoi của mình? Tại sao nhiều thanh, thiếu niên nghiện trò chơi điện tử, nghiện xem phim sex, phim bạo lực đến mức báo động đỏ? Tại sao các vụ ly hôn trong gia đình trẻ, các vụ vi phạm pháp luật ở tuổi vị thành niên và thanh niên liên tục gia tăng? Tại sao rất nhiều người trẻ đã bị lôi kéo, mê hoặc đến mức “phát cuồng” một số ca sĩ, diễn viên, ngôi sao bóng đá từ nước ngoài mà họ coi là thần tượng? Tại sao một số bộ phim vừa ra đời đã bị công luận tiến bộ cảnh báo là nhảm nhí, thảm họa, làm “vẩn đục” môi trường điện ảnh Việt Nam? Tại sao xuất hiện một số bài báo theo kiểu “lượm lặt đó đây”, “sưu tầm bốn phương”, “thông tin đa chiều”, “thế giới nhìn từ nhiều góc cạnh”… với nguồn thông tin không được kiểm chứng, thậm chí là những thông tin vô bổ, có xuất xứ từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam? Tại sao một số nhà xuất bản đã dịch và in ấn những cuốn sách nước ngoài có nội dung xa lạ với nếp nghĩ, truyền thống của dân tộc ta?
Tất cả những biểu hiện nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó, căn nguyên vừa sâu xa, vừa trực tiếp là do chúng ta chưa chuẩn bị chu đáo về tâm thế, bản lĩnh trước khi bước vào sân chơi toàn cầu, chưa đủ kiến thức và sự tỉnh táo cần thiết nên đã bị choáng ngợp trước các những cuộc “xâm lăng mềm” về văn hóa. Trong khi đó, các thế lực thù địch, bá quyền đã tìm mọi cách, lợi dụng mọi sơ hở về chính sách, luật pháp của Việt Nam và lợi dụng tối đa những mặt trái của internet để cung cấp, truyền bá các tư tưởng lai căng, các sản phẩm văn hóa, thông tin độc hại vào nước ta. Với phương thức “mưa dầm thấm lâu”, thông qua sản phẩm văn hóa, thông tin xấu độc xuất hiện ngày càng nhiều, các thế lực thù địch muốn tiêm nhiễm vào tâm hồn, suy nghĩ công chúng, nhất là giới trẻ, qua đó làm dao động niềm tin, chao đảo nhận thức, từng bước thay đổi tư tưởng, lối sống, tâm lý, hành vi của họ. Đó cũng là mưu đồ mà các thế lực thù địch muốn “chuyển đổi hệ giá trị” ở Việt Nam, làm cho giới trẻ bị cuốn vào lối sống vị kỷ, thực dụng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ngày càng xa rời lý tưởng, lẽ sống, niềm tin mà các thế hệ ông cha đã phải đổ bao xương máu, mồ hôi, công sức mới vun đắp, tạo dựng nên.
Cách đây gần 7 năm, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27-7-2010 về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”, trong đó đã cảnh báo nghiêm khắc: “Môi trường đạo đức và văn hóa lành mạnh bị đe dọa nghiêm trọng, có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa chọn các giá trị, lối sống và niềm tin của một bộ phận công chúng. Tình trạng đó đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự, an toàn, an ninh xã hội, dẫn đến khuynh hướng tự diễn biến về chính trị, tư tưởng, tác hại lâu dài đến các thế hệ mai sau”.
Văn kiện Đại hội XII cũng đã chỉ ra: “Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục… Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”.
Thông qua những cụm từ như: “Khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa chọn các giá trị, lối sống và niềm tin”, “tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”..., cũng đủ thấy tính chất nghiêm trọng của vấn đề mà Đảng ta đã chỉ ra. Những cảnh báo đó đến nay vẫn chưa hề mất tính thời sự, hơn thế, có vấn đề còn trở nên đáng báo động hơn.
Không phải ngẫu nhiên mà người ta nói: Mất đất có thể chưa mất nước, nhưng mất văn hóa là mất tất cả. Điều mấu chốt này tưởng như ai cũng hiểu, cũng thấu, nhưng trên thực tế, không ít tổ chức, cá nhân, trong đó đáng nói nhất là một bộ phận thanh, thiếu niên đã bị cuốn theo những “cơn lốc mềm” từ các cuộc “xâm lăng văn hóa” từ bên ngoài mà không hề hay biết. Sự vô tình, thiếu hiểu biết đó cùng với những “tác động mềm” hết sức tinh vi của các thế lực thù địch đã làm cho bản sắc văn hóa truyền thống bị nhạt phai, có thể dẫn tới nguy cơ mất gốc và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta dễ bị lung lay, mọt ruỗng.
Trước thực tế không thể coi nhẹ, xem thường đó, vấn đề cấp bách hiện nay là chúng ta phải thường xuyên, tích cực bồi tụ, vun đắp, nâng cao sức đề kháng văn hóa cho các cấp, các ngành và toàn xã hội. Sức đề kháng văn hóa chính là tăng cường khả năng phòng ngừa, bảo vệ, chống lại các sản phẩm văn hóa, thông tin độc hại từ bên ngoài xâm nhập vào nước ta. Lịch sử đã minh chứng rằng, sức đề kháng văn hóa có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc giữ gìn, bảo vệ và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nếu sức đề kháng văn hóa non nớt, nhu nhược, yếu kém sẽ là mảnh đất màu mỡ cho các “vi rút văn hóa” độc hại có cơ hội nảy sinh, lây lan, làm xói mòn tâm hồn, cốt cách văn hóa dân tộc. Ngược lại, nếu sức đề kháng văn hóa mạnh mẽ, cường tráng sẽ góp phần làm cho văn hóa Việt Nam không những giữ gìn được gốc gác, cội nguồn, bản sắc của mình, mà còn có thể đẩy lùi, tiêu trừ, loại bỏ được các tạp chất gây hại cho môi trường văn hóa dân tộc. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, việc huy động các cấp, các ngành và toàn xã hội cùng chung tay góp sức bồi đắp, nâng cao sức đề kháng văn hóa cho dân tộc chính là bảo đảm cho tư thế, bản lĩnh, sức sống và sức mạnh văn hóa Việt Nam luôn trường tồn, bền vững trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay. Đó cũng là giải pháp hữu hiệu bảo đảm cho những giá trị, tinh hoa của dân tộc không bị pha trộn, mất gốc hay đồng hóa trước các cuộc “xâm lăng văn hóa” từ bên ngoài.  
PHÚC NỘI