Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2019

Thanh niên quân đội thi đua làm theo lời Bác

Thấm nhuần những lời dạy của Bác, thanh niên quân đội đã và đang đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những mô hình cụ thể, việc làm thiết thực, kế tục và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ.
Thanh niên quân đội thi đua làm theo lời Bác
Các chiến sĩ trẻ của Binh chủng Thông tin liên lạc tập luyện sẵn sàng chiến đấu.
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Trong Di chúc, Người nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân, toàn quân luôn ghi nhớ: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
50 năm qua, các thế hệ thanh niên trong quân đội luôn nỗ lực rèn luyện, thể hiện tinh thần xung kích trên mọi mặt. Tại Lữ đoàn 134, Binh chủng Thông tin liên lạc, triển khai thực hiện tốt các phong trào Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Tuổi trẻ học tập và làm theo lời Bác, Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ... Hệ thống Đoàn Thanh niên cơ sở của Lữ đoàn 134 đã phát động và tổ chức thực hiện nhiều mô hình thiết thực gắn với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ đặc thù của đơn vị. Trong đó, mô hình Trạm thông tin bốn tốt làm theo lời Bác với các nội dung: Bảo đảm thông tin tốt; huấn luyện tốt; rèn luyện chấp hành kỷ luật, bảo đảm đời sống tốt và dân vận tốt, đã kết nối từng cán bộ, chiến sĩ thành khối đoàn kết phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ.
Sau một thời gian triển khai, mô hình nêu trên phát huy hiệu quả tích cực. Nền nếp trực phiên ca, kiểm tra bảo vệ an toàn các trạm máy, tuyến cáp được duy trì nghiêm, bảo đảm thông tin liên lạc, sẵn sàng chiến đấu liên tục, nhất là trong các dịp lễ, Tết và sự kiện trọng đại của đất nước. Tất cả đoàn viên, thanh niên chỉ sau hai tháng về trạm có khả năng độc lập khai thác, xử lý thuần thục các tình huống thông tin. Bên cạnh hoạt động nghiệp vụ, đoàn viên, thanh niên của đơn vị tích cực tham gia phong trào đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Cán bộ, chiến sĩ đóng quân trên các địa bàn luôn được cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân đùm bọc, yêu thương, thông qua các phong trào, nhiều chiến sĩ trẻ ưu tú đã vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Với không khí hào hứng, sôi nổi thi đua học tập và làm theo lời Bác, các cơ sở đoàn thanh niên tại Trường sĩ quan Thông tin cũng đã vận dụng thực tiễn, triển khai nhiều mô hình, sáng kiến, cách làm hay, sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, qua đây vừa trang bị kiến thức, thái độ và kỹ năng, vừa đẩy mạnh phong trào tự học, tự rèn của cán bộ, đoàn viên. Có thể kể đến các mô hình câu lạc bộ tiếng Anh và câu lạc bộ Kỹ năng trẻ. Với định hướng tập trung ngoại khóa, bổ trợ kiến thức cũng như kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Anh, câu lạc bộ tiếng Anh ở Trường sĩ quan Thông tin được thành lập ở cấp đại đội quản lý học viên. Hằng tuần, câu lạc bộ tổ chức khung giờ nghe tiếng Anh từ 5 giờ 30 phút đến 6 giờ vào mỗi buổi sáng và từ 21 giờ 30 phút đến 22 giờ 10 phút vào ba buổi tối trong tuần, với nội dung học tập được biên tập theo nhiều mức độ khác nhau. Hằng ngày, mỗi học viên học thêm năm từ mới theo các chủ đề cho trước. Cuối tuần, đại đội và ban chủ nhiệm câu lạc bộ sẽ tổ chức kiểm tra học viên theo phương thức ngẫu nhiên. Mỗi tháng, đại đội tổ chức một buổi hoạt động ngoại khóa, tạo không gian giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm học tập chung trong câu lạc bộ.
Câu lạc bộ Kỹ năng trẻ của trường được thành lập từ năm học 2014-2015. Ban đầu chỉ là mô hình thí điểm cấp tiểu đoàn, quản lý học viên và sinh viên. Mô hình được triển khai dưới dạng sân chơi dành cho các nhóm, đội gồm những đoàn viên có khả năng, trách nhiệm và nhiệt huyết làm nòng cốt, với nội dung hoạt động là những chủ đề gắn với tình huống hằng ngày trong sinh hoạt, học tập và công tác. Chỉ sau hơn một năm, mô hình phát triển mạnh mẽ, được triển khai thành câu lạc bộ hoạt động thường xuyên, nhằm tuyên truyền, giáo dục, trang bị cho học viên các kỹ năng như thuyết trình; làm việc nhóm; trình bày và giải quyết vấn đề lô-gích, khoa học; xây dựng kế hoạch; phản ứng, xử lý nhanh; giao tiếp; điều tiết cảm xúc; tổ chức hoạt động đoàn... Hiện nay, câu lạc bộ Kỹ năng trẻ được nhân rộng trong toàn trường, là nơi để người trẻ vừa học vừa chơi, giao lưu, học hỏi, trao đổi giữa các đơn vị, học viên quân sự và sinh viên dân sự.
Những mô hình nêu trên là đại diện cho nhiều hành động cụ thể có ý nghĩa thiết thực, được tuổi trẻ toàn quân hăng hái, sôi nổi thi đua vận dụng mỗi ngày để làm theo những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong Di chúc. 50 năm đã qua, Di chúc của Người vẫn luôn là kim chỉ nam để các thế hệ thanh niên Việt Nam nói chung, thanh niên quân đội nói riêng, sống, chiến đấu, lao động và học tập, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ.
BÀI VÀ ẢNH: LINH PHAN

ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

“Diễn biến hòa bình” là chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành, nhằm xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội bằng các phương thức, thủ đoạn phi vũ trang kết hợp với răn đe quân sự. Tính chất của “diễn biến hòa bình” là vô cùng thâm độc, tinh vi, nham hiểm, giấu mặt trá hình, ngụy trang dưới các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Tác hại của “diễn biến hòa bình” đối với hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới là vô cùng to lớn. Đối với nước ta, “diễn biến hòa bình” thực sự trở thành một nguy cơ gây mất ổn định chính trị, đe dọa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” là một yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách và là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; góp phần bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang ra sức xây dựng.
Nhận rõ nguy có đó, trong những năm qua, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã đề cao cảnh giác, tích cực đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tạo môi trường thuận lợi để tiến hành sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, chúng ta cũng còn bộc lộ không ít hạn chế và yếu kém. Một số tổ chức, lực lượng còn biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác về âm mưu, thủ đoạn tinh vi, thâm độc của chiến lược “diễn biến hòa bình”, cũng như tính chất nguy hiểm, gay go, ác liệt của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc để giữ vững độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới; đặc biệt, còn tư tưởng chủ quan, thiếu tính chủ động trong đấu tranh phòng và chống; nội dung, biện pháp đấu tranh chưa toàn diện trên các lĩnh vực, còn lúng túng, thiếu nhạy bén trong công tác tuyên truyền, định hướng cũng như cách thức tổ chức sử dụng lực lượng và các hình thức đấu tranh nên tính hiệu quả chưa cao.
Trong những năm tới, tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, sẽ có những diễn biến rất phức tạp, khó lường, với những khó khăn, thách thức mới đối với nước ta. Đặc biệt là khi chúng ta đang tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. Lợi dụng những vấn đề này, các thế lực thù địch sẽ quyết liệt đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều âm mưu, thủ đoạn, hình thức, phương tiện tinh vi, xảo quyệt để chống phá nước ta trên tất cả các lĩnh vực, nhằm phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, tiến tới thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong tình hình mới. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thời gian tới cần tập trung vào một số nội dung, biện pháp chủ yếu sau:
Một là, nâng cao nhận thức của các chủ thể về “diễn biến hòa bình” và đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”
Cần làm cho quần chúng nhân dân nhận thức được rằng, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc rất gay go và quyết liệt, phức tạp và lâu dài. Do đó, cuộc đấu tranh này giành được thắng lợi hay không phụ thuộc vào lực lượng cách mạng có nhận thức đúng và đủ mạnh để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng của mình hay không. Theo đó, trước hết, cần nâng cao nhân thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về bản chất, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Muốn vậy, phải tập trung nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý chí quyết tâm cao và niềm tin sắt đá vào độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhờ đó, có sức đề kháng tốt trước các luận điệu xuyên tạc của kẻ thù; đồng thời, chủ động đoàn kết chặt chẽ trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”.
Bên cạnh đó, cần kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” với đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận hiện nay. Nghiên cứu lý luận có kết hợp chặt chẽ với đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” mới gắn sát được với những vấn đề của thực tiễn đang đặt ra, mới trả lời được những vấn đề của thực tiễn đòi hỏi. Nhờ đó, sẽ giải đáp được yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, khi đó công tác nghiên cứu lý luận mới đi vào chiều sâu, thực chất; theo đó, công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” sẽ mang lại hiệu quả thiết thực.
Hai là, phát huy sức mạnh của các tổ chức, lực lượng trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”
Công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” là trách nhiệm của các tổ chức đảng và mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là các cấp ủy và cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị. Theo đó, các tổ chức đảng cần tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo và tiến hành công tác tư tưởng, lý luận; nâng cao tính chiến đấu và sức thuyết phục trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng loại hình tổ chức đảng mà xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Các tổ chức đảng cần phát huy tốt vai trò lãnh đạo của mình trong thực hiện các nhiệm vụ được giao và đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch, tư tưởng cơ hội, thực dụng, chủ nghĩa cá nhân; phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Bên cạnh đó, cần phát huy tốt vai trò của các cơ quan chức năng, lực lượng chuyên trách được giao nhiệm vụ phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Duy trì thường xuyên hoạt động của ban chỉ đạo các cấp; củng cố, kiện toàn và nâng cao trách nhiệm của thành viên các ban chỉ đạo, nhất là Ban Chỉ đạo Đề án 609 của Trung ương. Làm tốt công tác kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới trong nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”; đồng thời, phát huy tốt vai trò của các tổ chức trong đề ra các chủ trương, biện pháp đấu tranh phù hợp với tình hình, điều kiện cụ thể. Giải quyết kịp thời, dứt điểm những vấn đề phát sinh diễn ra không cho kẻ địch lợi dụng chống phá. Chỉ đạo và tổ chức kiểm tra, sơ kết, rút kinh nghiệm kịp thời các hoạt động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong các cơ quan, đơn vị và địa phương.
Ba là, tăng cường phối hợp, kết hợp giữa các tổ chức, các lực lượng trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”
Các tổ chức, các lực lượng có sự chỉ đạo chung thống nhất sẽ tạo nên sự thống nhất trong hành động, tạo nên sức mạnh của một khối thống nhất đủ sức để đấu tranh bác bỏ các luận điệu sai trái, xuyên tạc. Do đó, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” cần phải được tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt công tác và phải huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, phân công trách nhiệm hợp lý, bảo đảm sự phối hợp giữa các lực lượng một cách hợp lý nhất. Có sự phối hợp một cách hiệu quả giữa các Ban Chỉ đạo đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa (Ban Chỉ đạo Trung ương 94); Ban Chỉ đạo đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực lý luận (Ban Chỉ đạo Đề án 609); Ban Chỉ đạo đấu tranh chống quan điểm sai trái trong văn học, nghệ thuật (Ban Chỉ đạo Đề án 213); giữa Trung ương với địa phương, giữa các bộ, ngành và giữa các bộ phận trong từng ban chỉ đạo được đồng bộ, nhịp nhàng. Cần có cơ chế phối hợp giữa các tổ chức, các lực lượng, khắc phục những sự bất cập, chồng chéo trong công tác lãnh đạo, quản lý.
Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống quy định của Đảng về quy chế phối hợp trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Tạo sự lãnh đạo thống nhất từ Trung ương đến địa phương trong chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”; bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan đảng và chính quyền, giữa các cơ quan chức năng và các học viện, nhà trường, trường đại học, viện nghiên cứu; trong đó, chú trọng ở mỗi địa phương, giữa các cơ quan cùng cấp và giữa các địa phương và các cấp với nhau. Huy động được toàn thể nhân dân tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, tạo ra sức mạnh to lớn đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch. Thực hiện nghiêm việc tự phê bình và phê bình, triển khai có hiệu quả sinh hoạt tự phê bình và phê bình trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần các nghị quyết của Đảng đã đề ra, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và XII.
Bốn là, kết hợp giữa đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” với đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Để góp phần giữ vững an ninh quốc gia, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, cần đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” kết hợp với ngăn chặn có hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dưới sự lãnh đạo thường xuyên, tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức chính trị – xã hội. Căn cứ vào hướng dẫn của cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở cần xác định rõ nội dung, biện pháp, yêu cầu đạt được trong nhiệm vụ phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” phù hợp với từng giai đoạn và tình hình tại địa phương, đơn vị mình.
Bên cạnh đó, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, không để họ mơ hồ, mất cảnh giác về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, không để kẻ địch lợi dụng để tiến hành đẩy mạnh hoạt động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Phải làm tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cả về phẩm chất, năng lực, đảm bảo về số lượng và cơ cấu. Luôn bám sát thực tiễn nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và tình hình chung để có chủ trương biện pháp lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành nhiệm vụ được giao, có biện pháp phù hợp, kịp thời trong tiến hành đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị số 05/CT-TƯ, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Năm là, tăng cường cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”
Thường xuyên đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Tăng kinh phí cho hoạt động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Kết hợp nguồn kinh phí xã hội hóa và nguồn ngân sách Nhà nước phục vụ cho nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Có chủ trương đúng trong việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Mặt khác, những người tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng cũng cần được quan tâm thỏa đáng cả về vật chất lẫn tinh thần để họ có thể hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ, đập tan các luận điệu xuyên tạc của kẻ thù. Có chế độ thù lao tương xứng cho những công trình, chuyên đề chuyên sâu về đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” để thu hút những người tâm huyết tham gia viết bài đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, nâng cao hiệu quả đáu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” hiện nay. Bên cạnh đó cần hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các lực lượng, chủ thể tham gia đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Có quy định rõ ràng về thẩm quyền, trách nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”.

Chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ - Một số vấn đề đặt ra đối với lực lượng công an nhân dân giai đoạn hiện nay

Hiện nay, cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi mới đối với lực lượng công an nhân dân, với trọng trách là “thanh kiếm và lá chắn” bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Bước sang giai đoạn cách mạng mới, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi để phát triển, chúng ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trong đó “bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng in-tơ-nét để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...”(1).
Thực tế cho thấy, những năm qua, các thế lực thù địch đã ra sức thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị - tư tưởng, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại, với trọng tâm là cổ xúy hệ tư tưởng tư sản, âm mưu xóa bỏ nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng ta - chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội... Mục tiêu cuối cùng mà các thế lực thù địch hướng tới là làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mặc dù âm mưu “diễn biến hòa bình” của chúng là nhất quán, nhưng trong bối cảnh mới, nó được thực hiện với những phương thức, thủ đoạn mới tinh vi, xảo quyệt hơn. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông và mạng in-tơ-nét để tiến hành các hoạt động chống phá ta, đồng thời thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ thực chất là quá trình tự biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, đi ngược với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trước hết trong cá nhân cán bộ, đảng viên và nếu không được ngăn chặn kịp thời, có thể dẫn đến sự suy thoái của tổ chức, và về lâu dài, sẽ dẫn đến chuyển hóa chế độ chính trị. Bởi vậy, Đảng ta xác định, cùng với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng là nguy cơ không thể xem thường đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Đảng ta chỉ ra 9 biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm cơ sở cho việc nhận diện và đề ra các giải pháp phù hợp để ngăn chặn, đẩy lùi.
Có thể thấy, “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có mối liên hệ chặt chẽ, không tách rời nhau, trong đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vừa là thủ đoạn, vừa là mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình”. Do đó, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, mà còn là giải pháp quan trọng, chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước.
Với vai trò là lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành của Đảng, “thanh kiếm và lá chắn” bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, Công an nhân dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Ý thức sâu sắc về trách nhiệm của mình, thời gian qua, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của Chính phủ, được sự giúp đỡ của nhân dân, sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ của Quân đội nhân dân, các ban, ngành ở Trung ương và địa phương, lực lượng công an nhân dân đã thực hiện và hoàn thành tốt nhiều nhiệm vụ chính trị quan trọng. Đã chủ động, tích cực tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, góp phần hoàn thiện cơ sở chính trị, pháp lý cho việc triển khai các mặt công tác, chiến đấu của Công an nhân dân; chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và vô hiệu hóa nhiều âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước; tổ chức có hiệu quả công tác đấu tranh trên phương diện tư tưởng, lý luận, nhất là phản bác các luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động. Đồng thời, gương mẫu đi đầu trong thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”...
Việc lực lượng công an nhân dân tham gia đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế cần khắc phục, nhất là công tác quản lý cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ còn bộc lộ sơ hở, để xảy ra một số vụ, việc cán bộ, chiến sĩ vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Đảng, của ngành, làm giảm niềm tin trong nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, truyền thống của lực lượng. Trong công tác và trong chiến đấu, một số cán bộ, chiến sĩ còn có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, thiếu ý chí rèn luyện, phấn đấu vươn lên, thậm chí có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống. Bởi vậy, cùng với việc thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, lực lượng công an nhân dân cần xác định việc tăng cường đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một giải pháp quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng lực lượng công an nhân dân giai đoạn hiện nay.
Trong thời gian tới, để xứng đáng là lực lượng tiên phong, gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng, lực lượng công an nhân dân cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt một số nội dung trọng tâm sau:
Một là, thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Công tác công an phải gắn chặt với đường lối chính trị của Đảng. Nếu thoát ly đường lối chính trị của Đảng, thì dù khéo mấy cũng không kết quả”(2), lực lượng công an nhân dân cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Công an nhân dân. Theo đó, phải tăng cường công tác đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong Công an nhân dân, góp phần xây dựng lực lượng công an nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. “Nhanh chóng hoàn thiện cơ chế, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy và tổ chức đảng trong công an các cấp, thống nhất, xuyên suốt từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Đảng ủy Công an Trung ương với các tỉnh, thành ủy”(3). Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chống địch cài cắm; đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động, nhạy bén, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ của các thế lực thù địch nhằm “phi chính trị hóa” lực lượng công an nhân dân. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, ngăn chặn mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần xây dựng hình ảnh đẹp của người cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân trong lòng nhân dân.
Hai là, chủ động tham mưu với các cấp ủy, chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự và tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị ở cơ sở trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự, trọng tâm là các địa bàn chiến lược, vùng có đông đồng bào các tôn giáo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” trên mọi địa bàn, mọi lĩnh vực; xây dựng và củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, gắn với nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc; kịp thời phát hiện những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị và đề xuất biện pháp xử lý phù hợp, không để các thế lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng. Làm tốt hơn nữa vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc giải quyết dứt điểm các vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh, không để hình thành “điểm nóng” về an ninh, trật tự.
Ba là, tăng cường phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với Quân đội nhân dân, các ban, ngành ở Trung ương và địa phương trong việc chủ động nghiên cứu, nắm chắc tình hình, dự báo sát, đúng những tình huống phức tạp có thể xảy ra để kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành và chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Lực lượng công an nhân dân cũng cần chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng trong phòng ngừa, đấu tranh, không để kẻ địch, phần tử xấu xâm nhập, lôi kéo, móc nối, tác động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; bảo đảm mọi chủ trương, đường lối của Đảng phải được thực hiện có hiệu quả trong thực tế. Đề cao cảnh giác, kịp thời phát hiện và kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm thù địch, sai trái; vạch trần những âm mưu và hành động lợi dụng một số vụ án, vụ việc tiêu cực để làm tổn hại tới khối đại đoàn kết toàn dân, hạ thấp vai trò, uy tín của Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân(4). Trong đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, cần quán triệt phương châm “Lấy chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính”; đồng thời phải tỏ rõ dũng khí của lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, với tinh thần “thượng tôn pháp luật”, kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Bốn là, đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của cấp ủy các cấp trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Theo đó, Công an nhân dân cần tăng cường lực lượng bám địa bàn cơ sở và phải gần dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, “sống trong lòng nhân dân” để xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh, gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở. Mỗi cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân phải luôn thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về công tác dân vận, tiên phong trong tuyên truyền, vận động, giúp nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, từ đó có biện pháp “tự bảo vệ mình” và tăng “sức đề kháng”, khả năng “tự miễn nhiễm” trước những thông tin, luận điệu xuyên tạc, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Bảo vệ và củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với Công an nhân dân trước âm mưu gây chia rẽ trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, lực lượng công an nhân dân phải trọng dân, lắng nghe nhân dân, vì nhân dân phục vụ, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ, giúp đỡ...
Năm là, phát huy vai trò của báo chí công an nhân dân trong tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Báo chí công an nhân dân cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí khác trong việc định hướng thông tin, tuyên truyền; phản ánh kịp thời, chính xác những vấn đề xã hội phức tạp; vạch trần âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ và đánh giá đúng những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Báo chí công an nhân dân phải là kênh thông tin quan trọng, chính thống và tin cậy không chỉ với lực lượng công an nhân dân mà với toàn xã hội về các vấn đề chính trị, xã hội, đặc biệt là trong đấu tranh phòng, chống các thế lực thù địch và các loại tội phạm; là “điểm tựa” để nhiều cơ quan báo chí khác triển khai đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động. Để làm được điều đó, báo chí công an nhân dân phải không ngừng nâng cao chất lượng các bài viết phê phán những quan điểm sai trái và đổi mới phương thức truyền tải thông tin, nhằm thu hút sự quan tâm nhiều hơn của độc giả. Cơ quan quản lý báo chí và cơ quan báo chí công an nhân dân cần chú trọng xây dựng đội ngũ phóng viên, biên tập viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu pháp luật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Sáu là, mỗi cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân trên cương vị công tác của mình cần không ngừng rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, tăng cường khả năng tự bảo vệ mình trước tác động của “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Theo đó, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân phải là những người tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; không ngừng học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân”; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng; nêu cao tính tiền phong, gương mẫu trước Đảng, trước nhân dân; quyết tâm giữ mình trong sạch, không sa ngã trước những cám dỗ của các phần tử xấu, “lợi ích nhóm”, không để các thế lực thù địch lợi dụng, mua chuộc, lôi kéo, tác động, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; luôn tận tụy với công việc, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.
----------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 68
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 140
(3) Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 74 được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 3-1-2019
(4) Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 74 được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 3-1-2019

Nguyễn Yến Thanh

Thứ Năm, 26 tháng 12, 2019

Phòng, chống bệnh lười biếng

Chủ tịch Hồ Chí Minh lao động tăng gia sản xuất cùng cán bộ, chiến sĩ bảo vệ. (Ảnh tư liệu)
LƯỜI BIẾNG CŨNG LÀ KẺ ĐỊCH
Trong tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính”, khi bàn về chữ “Cần”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lười biếng là kẻ địch của chữ cần. Vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc. Một người lười biếng, có thể ảnh hưởng tai hại đến công việc của hàng nghìn, hàng vạn người khác”(1). Hồ Chí Minh đã cắt nghĩa trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”: “Bệnh lười biếng - Tự cho mình là cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết. Làm biếng học hỏi, làm biếng suy nghĩ. Việc dễ thì tranh lấy cho mình. Việc khó thì đùn cho người khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cách để trốn tránh”(2); Người giải thích cặn kẽ hơn: “Bệnh lười biếng - Khi tiếp được mệnh lệnh hoặc nghị quyết, không chịu nghiên cứu rõ ràng. Không lập tức đưa ngay mệnh lệnh và nghị quyết đó cho cấp dưới, cho đảng viên, cho binh sĩ. Cứ xếp lại đó. Khi thi hành, kềnh kềnh càng càng, không hoạt bát nhanh chóng. Hoặc thi hành một cách miễn cưỡng, không sốt sắng, không đến nơi đến chốn. Kết quả nhỏ là: nghị quyết đầy túi áo, thông cáo đầy túi quần. Kết quả nặng là: phá hoại tổ chức của Đảng, giảm bớt kỷ luật của Đảng, bỏ mất thời cơ tốt, lúc nên làm thì không làm, khi làm thì trễ rồi. Đó là vì tính lười biếng, chậm chạp”(3).
Người cảnh báo thái độ lười học tập, nhất là lười học tập lý luận chính trị, văn hóa và chuyên môn - nghiệp vụ: “Lười biếng: Không chịu khó học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ của mình về chính trị, văn hóa và nghiệp vụ. Do ít hiểu biết về tình hình trong nước và ngoài nước, ít nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho nên gặp thuận lợi thì dễ lạc quan tếu, gặp khó khăn thì dễ dao động, bi quan, lập trường cách mạng không vững vàng, thiếu tinh thần độc lập suy nghĩ và chủ động sáng tạo. Do đó mà gặp nhiều khó khăn trong công việc, tác dụng lãnh đạo bị hạn chế”(4).
Khi cho rằng, lười biếng cũng là đắc tội với đồng bào, với Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã đưa ra hình ảnh so sánh: “Nếu có một người, một địa phương hoặc một ngành mà lười biếng, thì khác nào toàn chuyến xe chạy, mà một bánh xe trật ra ngoài đường ray. Họ sẽ làm chậm trễ cả chuyến xe. Vì vậy, người lười biếng là có tội với đồng bào, với Tổ quốc”(5).
NGUỒN GỐC BỆNH LƯỜI BIẾNG 
Theo Hồ Chí Minh, cũng giống như bệnh “kiêu ngạo”, bệnh lười biếng của cán bộ, đảng viên không tự nhiên sinh ra, không thuộc về bản chất vốn có của họ, lại càng không phải bản chất của Đảng ta, nó do nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại. Về nguyên khách quan, từ rất sớm, Nguyễn Ái Quốc trong bài “Tình cảnh nông dân An Nam” đăng trên Báo La Vie Ouvrière, ngày 4-1-1924 đã viết: “Người An Nam nói chung, phải è cổ ra mà chịu những công ơn bảo hộ của nước Pháp. Người nông dân An Nam nói riêng, lại càng phải è cổ ra mà chịu sự bảo hộ ấy một cách thảm hại hơn: là người An Nam, họ bị áp bức; là người nông dân, họ bị người ta ăn cắp, cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản. Chính họ là những người phải làm mọi công việc nặng nhọc, mọi thứ lao dịch. Chính họ làm ra cho lũ người ăn bám, lũ người lười biếng, lũ người đi khai hóa và những bọn khác hưởng mà chính họ thì lại phải sống cùng khổ trong khi những tên đao phủ của họ sống rất thừa thãi; hễ mất mùa thì họ chết đói”(6). Tiếp đến, ở tác phẩm “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, Người lý giải: “Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hoá dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác”(7)Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người giải thích rõ hơn: “Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ. Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào Đảng. Cũng như những người hàng ngày lội bùn, mà trên mình họ có hơi bùn, có vết bùn. Như thế thì có gì là kỳ quái? Vì lội bùn thì nhất định có hơi bùn. Cần phải tắm rửa lâu mới sạch. Trái lại, nếu lội bùn mà không có hơi bùn, mới thật là kỳ quái. Nếu trong Đảng ta, một đảng mới từ trong xã hội cũ bước ra, nếu nó hoàn toàn không có những người xấu, việc xấu như thế mới là kỳ quái chứ! Cố nhiên nói thế không phải là để tự bào chữa”(8).
Về nguyên nhân chủ quan, Hồ Chí Minh cho rằng, nó xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân mà ra: “… vì tư tưởng cá nhân chủ nghĩa đẻ ra nhiều cái xấu như lười biếng, tham ô, đòi hưởng thụ, kèn cựa, địa vị... Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, muốn có tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”(9). Theo Người, “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra nhiều cái xấu, thiên hình vạn trạng. Ví dụ: lười biếng, hủ hóa, suy tính tiền đồ”(10); “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể. “Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”. Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu như: lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô, v.v.. Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã hội”(11).
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn chỉ ra một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến bệnh lười biếng là: “…việc giáo dục chính trị còn sơ sài, thiếu sót. Vì vậy mà một số cán bộ và công nhân còn mang nặng chủ nghĩa cá nhân, thái độ làm thuê, thiếu tinh thần làm chủ tập thể. Do đó mà có những hiện tượng xấu như: lười biếng, kèn cựa, thiếu kỷ luật, kém đoàn kết, tham ô, lãng phí”(12).
"PHƯƠNG THUỐC" KHẮC PHỤC BỆNH LƯỜI BIẾNG 
Theo Hồ Chí Minh, khắc phục bệnh lười biếng này là yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu trước mắt là khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu để nâng cao đời sống nhân dân: “Nước ta còn lạc hậu, dân ta còn nghèo, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, muốn cải thiện đời sống, thì chúng ta càng phải Cần, phải Kiệm, phải chống lười biếng, chống lãng phí”(13). Hơn nữa, đó còn là mục tiêu của xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Trong xã hội ta, không có nghề nào thấp kém, chỉ những kẻ lười biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ. Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy giáo, kỹ sư, nếu làm trọn trách nhiệm thì đều vẻ vang như nhau. Ai sợ khó, sợ khổ, muốn “ngồi mát ăn bát vàng”, người đó mới là kém vì không phải là người xã hội chủ nghĩa”(14).
Do đó, Người yêu cầu: “…phải gạt bỏ những thái độ sai lầm như: thỏa mãn với thành tích bước đầu, bảo thủ, tự mãn với những kinh nghiệm đã có, có ít nhiều tri thức thì kiêu căng, coi khinh quần chúng, hoài nghi những sáng kiến bình thường của quần chúng; lười biếng, không tích cực học tập cái mới, v.v..”(15).
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh nêu ra những “phương thuốc” hữu hiệu để “chữa bệnh lười biếng” đó là:
“Cách chữa:
- Các cơ quan chỉ đạo phải có cách lãnh đạo cho đúng. Mỗi việc gì đều phải chỉ bảo cách làm.
- Cấp trên phải hiểu rõ tình hình cấp dưới và tình hình quần chúng, để chỉ đạo cho đúng.
- Khi nghị quyết việc gì, phải cẩn thận, rõ ràng. Khi đã nghị quyết thì phải kiên quyết thi hành”(16).
Phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ mọi mặt, Hồ Chí Minh coi đó là biện pháp hết sức rất cần thiết. Người yêu cầu: “Phải chú ý học tập: Chống lười biếng, ngại học tập, muốn nghỉ ngơi. Muốn tiến bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, thì phải học tập các chính sách của Đảng và Chính phủ”(17). Đồng thời, phải ra sức học tập ở nhân dân, bởi: “Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(18).
Người cũng yêu cầu trong Đảng, trong Chính phủ, các cấp, các ngành và mọi đoàn thể cùng mỗi cá nhân phải “…cần có một cuộc vận động: Tiêu diệt lười biếng, nâng cao năng suất, củng cố kỷ luật lao động”(19).
Những lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng, chống bệnh lười biếng chẳng những có giá trị lịch sử, mà còn luôn có tính thời sự trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng, chống bệnh lười biếng nếu được quán triệt và vận dụng sáng tạo sẽ khắc phục có hiệu quả bệnh lười biếng của cán bộ, đảng viên, đồng thời góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, công tâm, thạo việc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới./.
Nguyễn Thị Bích Hà

Học và làm theo Bác để trở thành người đầy tớ của dân

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu khai mạc Hội nghị toàn quốc về phòng, chống tham nhũng. Ảnh: TTXVN
CÁN BỘ LÀ ĐẦY TỚ CỦA DÂN
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”[1] và “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân”[2]. Vì thế,cán bộ, đảng viên phải là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân, người công bộc tận tụy (dốc lòng phục vụ, tận tụy phục vụ: phục vụ Tổ quốc[3]) chứ không phải là “quan cách mạng” và “vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”[4]… .
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng: “Dân là chủ thì chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan cách mạng” và “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”[5], có nghĩa là trong tư tưởng của Người, Đảng nói chung, mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng, bên cạnh địa vị, trí tuệ của một “nhà lãnh đạo” đều phải có tinh thần làm việc của một “người đầy tớ” nhân dân. Đó là một chỉnh thể thống nhất, biện chứng, không thể tách rời trong phương pháp và phong cách làm việc của Đảng; đồng thời, thể hiện rõ nét nhất sự khác biệt về bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo so với Nhà nước thực dân, phong kiến. Điều này cũng không mâu thuẫn với trọng trách kép: “người lãnh đạo” và “người đày tớ” là vì: 1) Để xứng đáng là người lãnh đạo, cán bộ phải thực thi một chủ trương, đường lối hợp lòng dân, vì lợi ích của nhân dân; 2) Muốn đưa chủ trương, đường lối vào cuộc sống, người lãnh đạo phải thật sự gần dân, hiểu dân, ngày đêm trăn trở với lợi ích của dân, phải thật sự vì dân phục vụ. Hai điều này đều thể hiện tâm thế “người lãnh đạo” và “người đầy tớ” của nhân dân.
Vì vào Đảng là để phục vụ Tổ quốc và nhân dân, cho nên theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi người cán bộ, đảng viên xác định rõ vị thế “lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân và phải làm cho tốt”[6] thì tinh thần phục vụ như “công bộc” sẽ chi phối và ảnh hưởng trực tiếp đến việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng nói chung, đạo đức công vụ nói riêng. Điều này được thể hiện rõ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện (qua suy nghĩ, thái độ và hành động) của mỗi người trên tinh thần: 1) Luôn đặt lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; sẵn sàng đón nhận mọi khó khăn, vất vả, thậm chí hy sinh cả bản thân vì lợi ích chung. 2) Trong bất cứ thời điểm nào, hoàn cảnh cụ thể nào cũng phải “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”[7]; không để “dân đói”, “dân rét”, “dân dốt”. 3) Không những phải “yêu dân”, “kính dân” mà còn phải biết ơn nhân dân vì “cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra”[8].
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, muốn “làm người đày tớ nhân dân chứ không phải làm quan nhân dân”[9]người cán bộ, đảng viên phải nắm vững “dân là chủ” và “dân làm chủ” và “phải mở rộng dân chủ thật sự với nhân dân”[10]. Theo Người, “chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là đày tớ trung thành của nhân dân”[11].. Đồng thời, Người cũng yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên ở bất cứ địa vị nào cũng phải làm gương thực hành dân chủ trong công tác để tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân phát huy sáng kiến, nâng cao hiệu quả công việc. Mỗi người, dù đảm nhận vị trí công tác nào cũng “trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”[12] và “phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ đến đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới”[13].
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tinh thần làm việc và trách nhiệm của “người đầy tớ” trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là đi đúng đường lối quần chúng, “từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, thể hiện ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, hiểu dân và học hỏi kinh nghiệm từ nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời, tất cả vì nhân dân phục vụ, với tinh thần hiểu thấu và sẻ chia, chủ động và linh hoạt, phù hợp điều kiện cụ thể; thể hiện ở quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, kiên quyết, kiên trì nói đi đôi với làm, xây đi đôi với chống để “tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”[14].
CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN PHẢI TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”[15] và “chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm; quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí…Nó trói buộc, nó bị mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”[16]. Những người sa vào chủ nghĩa cá nhân thì “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ”[17]. Đó chính là những người thiếu nỗ lực rèn luyện đạo đức cách mạng, không thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Vì thế, để hoàn thành tốt trọng trách “công bộc”/“đầy tớ” của nhân dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, người lãnh đạo, quản lý, đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng phải luôn học tập và thấm nhuần đường lối, quan điểm của Đảng, không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo/quản lý; phải trau dồi đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải công tâm, kỷ luật, tự giác, thẳng thắn, triệt để trong thực thi quyền lực, trong tự phê bình và phê bình theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Mỗi người, hằng ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa trên tinh thần: đối với mình thì phải “cả quyết sửa lỗi”, đối với người thì “có lòng bày vẽ” và nhất là “phải xem trọng những phê bình và những đề nghị của quần chúng… phải thật thà và công khai tự phê bình, ra sức sửa chữa… cần luôn luôn hoan nghênh quần chúng phê bình[18], để một mặt phát huy ưu điểm, mặt khác khắc phục những sai lầm, khuyết điểm. Đồng thời, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, phải hết sức chú trọng công tác kiểm tra, giám sát; phải coi kiểm tra và giám sát là điểm xuất phát, là khâu trung tâm của công tác lãnh đạo để làm cho lãnh đạo đạt hiệu quả cao nhất.
Thực tế công tác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên “phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải thật thà phê bình và tự phê bình để làm gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật. Phải chí công vô tư, không thiên vị, không thành kiến”[19]. Qua đó, một mặt, kiểm tra tính đúng đắn, phù hợp của chủ trương, đường lối của Đảng so với thực tiễn, phát huy ưu điểm, phát hiện cái mới, cái tốt hơn nhằm điều chỉnh, đề ra phương thức lãnh đạo sát hợp hơn; mặt khác, ngăn ngừa, khắc phục những biểu hiện tha hóa quyền lực của đội ngũ cán bộ như: lạm quyền, lộng quyền, trục lợi từ quyền, cửa quyền, tiếm quyền, lấn át chính quyền, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Và thực tế cũng cho thấy là, ở đâu, địa phương nào mà người cán bộ, đảng viên thương yêu nhân dân, gần gũi và giúp đỡ nhân dân, bảo vệ và sẵn sàng đáp ứng các nguyện vọng chính đáng của nhân dân, lắng nghe và học hỏi kinh nghiệm từ nhân dân, hết lòng vì nhân dân phục vụ thì ở đó họ luôn được sự che chở, đùm bọc, kính trọng, luôn quy tụ và hấp dẫn được quần chúng. 
Tuy nhiên, có không ít minh chứng sinh động trong thực tiễn về sự suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Đó là những người không kiên định lập trường, lý tưởng cách mạng, thiếu tu dưỡng đạo đức cách mạng và rèn luyện bnar lĩnh chính trị nên đã không thể vượt qua, không thể thắng được sự cám dỗ của lợi ích vật chất để rồi vi phạm pháp luật, làm mất lòng tin của nhân dân, làm tổn hại uy tín của của Đảng. Đó là những kẻ mang trong mình óc lãnh tụ, bệnh cá nhân chủ nghĩa, tự cho mình là “quan phụ mẫu” của dân khi lợi dụng quyền lực, lạm dụng quyền hạn của mình, “dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình”[20]; ỷ thế vào quyền hạn và trách nhiệm được trao tại các cơ quan công quyền để trục lợi và “sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi”, kéo bè kéo cánh, chăm chú cho lợi ích của nhóm mình, dòng họ, địa phương mình. Đối với những cán bộ thoái hóa, biến chất này, thì trong mọi mặt công tác: “Ai hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không thân với mình thì dù họ có tài cũng tìm cách dìm họ xuống, họ nói phải mấy cũng không nghe”[21]; đồng thời, “1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. 2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực. 3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp với mình[22]
Trong những năm qua, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật về thực trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên không làm tròn trọng trách người “công bộc”/“đầy tớ” của nhân dân, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã nêu rõ: “Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở…Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”. Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống; 9 biểu hiện về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Thời gian qua, ở một số địa phương, hệ thống chính trị mất sức chiến đấu, thậm chí bị vô hiệu hóa. Một trong những lý do của thực trạng này là vì một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; trong đó, có cả lãnh đạo cấp cao, miệng thì nói “dân chủ” nhưng làm việc thì họ theo lối “quan chủ”; miệng thì nói phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân nhưng hành động thì trái với lợi ích của quần chúng. Họ không chỉ mắc các chứng bệnh chủ quan, quan liêu, thiếu trách nhiệm và vô cảm trước những tâm tư, nguyện vọng, bức xúc của nhân dân mà còn say sưa với lợi ích nhóm, kéo bè kéo cánh để mưu cầu “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Những vi phạm của họ, sự suy thoái của họ đã để lại hậu quả nghiêm trọng, đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu tại phiên bế mạc Hội nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII (12/10/2019): “Kể từ đầu nhiệm kỳ khóa XII đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật hơn 70 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý. Trong đó có 1 đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị và 4 đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng khoá XII, 14 đồng chí nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, 1 đồng chí nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, 5 đồng chí Bộ trưởng và nguyên Bộ trưởng, 2 đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ, 5 đồng chí nguyên Bí thư Tỉnh ủy và 17 đồng chí là tướng lĩnh; một số cán bộ đã bị xử lý hình sự. Thật là đau xót, nhưng nói như Tổng bí thư là: “Không thể không làm, không có cách nào khác! Đây là bài học sâu sắc, bài học đắt giá cho tất cả chúng ta”.
Với những khoản tiền lót tay cả triệu USD, nhiều bị can trong thương vụ MobiFone mua AVG đã bị Viện Kiểm sát nhân dân tối cao truy tố, trong đó có ông Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn
 
ĐỂ LÀM TRỌN NHIỆM VỤ NGƯỜI ĐẦY TỚ THẬT TRUNG THÀNH
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa hồng vừa chuyên, vì Đảng vì nhân dân mà gương mẫu đi đầu trong mọi công việc, v.v.. là sự quan tâm chu đáo, nhất quán trong tư tưởng và hành động của Người ở mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm lịch sử. Thời chiến cũng như thời bình, Người luôn quan tâm công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ phát triển toàn diện, nhất là gương mẫu trong rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư để trở thành những người công bộc tận tụy; và chính Người cũng là một mẫu mực của tấm gương người “công bộc”/“đầy tớ” thật trung thành của nhân dân.
Học tập và làm theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh để mỗi cán bộ, đảng viên xứng đáng là người “công bộc”/“đầy tớ” tận tụycủa nhân dân, cấp ủy và đội ngũ cán bộ, đảng viên cần tập trung thực hiện những giải pháp trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII ngày 15/5/2016 về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII ngày 30/10/2016 về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, với Quy định 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 về “Quy định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm” và các quy định về nêu gương. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân thành nền nếp, tự giác, nhu cầu tự thân của mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên. Đồng thời, nhận diện, chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của những kẻ vi phạm kỷ luật Đảng để không chỉ đấu tranh quyết liệt, có hiệu quả với các việc làm sai trái mà còn kịp thời và kiên quyết đưa ra khỏi Đảng, xử lý đúng quy định những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, bất kể là ai, ở vị trí công tác nào, đương chức hay đã nghỉ hưu.
Hai là, đẩy mạnh thực hiện tự phê bình và phê bình gắn với tăng cường giám sát và kiểm tra trong mọi mặt công tác, bảo đảm thực chất, dân chủ, khách quan, trung thực, đầy đủ, có chất lượng theo nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa “xây và chống, lấy xây là chính”. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong công tác lãnh đạo, quản lý và kiểm tra, kiểm soát đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu theo định kỳ và đột xuất gắn với giám sát mở rộng và kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong nhiệm kỳ và hằng năm. Thực hiện nghiêm Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và Chỉ thị 05 theo phương châm “trên trước, dưới sau”, “từ trong ra, từ ngoài vào”, “từ trên xuống, từ dưới lên”, nhằm tăng cường đoàn kết nội bộ; đồng thời, gắn khen thưởng kịp thời với kỷ luật nghiêm minh, góp phần củng cố và tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong mỗi tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị.
Ba là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong việc tăng cường cơ chế tự kiểm soát quyền lực của cán bộ, đảng viên; trong đó, cán bộ, đảng viên có chức vụ càng cao càng phải xây dựng và thực hiện việc rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo chương trình của cấp ủy và kế hoạch đăng ký của cá nhân theo nội dung Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII nghiêm túc, thực chất. Nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, phòng và chống chủ nghĩa cá nhân thông qua sinh hoạt Đảng, tự phê bình và phê bình, qua hoạt động kiểm tra, giám sát, chất vấn, giải trình, đảm bảo khách quan, minh bạch, dân chủ. Kiên quyết không để lọt vào danh sách cán bộ quy hoạch các cấp, nhất là cấp chiến lược và các cấp uỷ nói chung, của Đại hội Đảng lần thứ XIII nói riêng những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, cơ hội, vi phạm kỷ luật Đảng, Điều lệ Đảng.
Bốn là, dựa vào nhân dân, nâng cao vai trò sự giám sát của nhân dân và đảng viên ở nơi công tác và địa bàn cư trú để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý những hành vi lạm dụng, trục lợi từ quyền lực, cậy quyền, ỷ thế, "lên mặt làm quan cách mạng" của những cán bộ, đảng viên được trao quyền. Các trường hợp vi phạm kỷ luật phải được xử lý nghiêm minh, làm nghiêm từ trên xuống dưới để giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, để giữ vững và củng cố niềm tin yêu, quý trọng của nhân dân. Trên tinh thần thống nhất giữa nói và làm, nêu gương làm trước, đi đầu trong mọi hoàn cảnh, tinh thần phục vụ tận tụy và thực hiện trách nhiệm “công bộc”/“đầy tớ” nhân dân của cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị nói riêng phải được thấu triệt trong suy nghĩ và hành động cụ thể.
Năm là, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông trong việc phát hiện những biểu hiện thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp cao trục lợi, tham ô, tham nhũng, gây hậu quả nghiêm trọng. Đồng thời, nhân rộng những tấm gương người tốt, việc tốt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân để lấy cái đẹp dẹp cái xấu, lấy cái tích cực đẩy lùi cái tiêu cực cũng, góp phần lan tỏa những “bông hoa đẹp” trong đời sống xã hội. Đi liền cùng đó, cần kịp thời thông tin về những biểu hiện tha hóa quyền lực, những vụ án tham ô, tham nhũng,v.v.. của cán bộ, đảng viên đã và đang bị xử lý theo pháp luật để không chỉ có tác dụng răn đe, cảnh tỉnh, ngăn ngừa mà còn góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trước trọng trách, quyền lực được trao trong thực thi nhiệm vụ./. 
TS. Trần Thị Kim Ninh
Học viện Chính trị Khu vực II