Thứ Năm, 26 tháng 7, 2018

Tháng bảy tri ân - “Uống nước nhớ nguồn”

Kết quả hình ảnh cho 27/7Tháng 7, cả nước hướng về Ngày Thương binh - Liệt sĩ với lòng biết ơn sâu sắc lớp lớp cha anh đã hy sinh xương máu để đất nước có được sắc xanh hòa bình hôm nay. Hơn ai hết, những công dân đất Việt hôm nay cần phải biết trân quý giá trị của hòa bình, độc lập dân tộc được đánh đổi bởi máu xương bao thế hệ cha ông qua những cuộc trường chinh giữ nước. Với những hành động cụ thể để tưởng nhớ, tri ân những anh hùng liệt sĩ, những thương bệnh binh, gia đình có công cách mạng, hy sinh vì dân, vì nước. 

Chiến tranh đã qua đi, nhưng tất cả chúng ta - những người dân Việt Nam không lúc nào quên đi những mất mát, những nỗi đau mà chiến tranh để lại. Những người còn sống hay những người đã nằm xuống. Nhưng những chiến công và tên tuổi của các anh đã trở thành bất tử, khắc ghi vào lịch sử dân tộc và mãi mãi được thế hệ những người Việt Nam tưởng nhớ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”; “Chính họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi…, tinh thần của họ luôn sống với non sông Việt Nam”. Vì Tổ quốc, vì nhân dân, rất nhiều người con của đất nước, trong đó có những người tuổi đời mới mười chín, đôi mươi đã gạt lại phía sau những hạnh phúc riêng tư, những trang sách, giảng đường để lên đường đấu tranh vì độc lập, tự do và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước như: Nguyễn Văn Trỗi, Võ Thị Sáu, Nguyễn Đăng Sơn, Đặng Thùy Trâm,.. và, rất nhiều người đã hi sinh hay để lại một phần thân thể nơi chiến trường vì lí tưởng cao đẹp. Anh hùng lực lượng vũ trang, liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thùy Trâm đã viết: "Hãy giữ vững tinh thần của người cộng sản, tinh thần trong suốt như pha lê, cứng rắn như kim cương và chói lọi muôn nghìn hào quang của lòng tin tưởng...". 

Kết quả hình ảnh cho 27/7
Tháng 7 là dịp tri ân, mà việc tri ân không chỉ một tháng, một ngày, mà nhiều năm qua đó là việc làm thường xuyên, liên tục của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể với hàng loạt chương trình, hành động cụ thể, thiết thực, giàu ý nghĩa. Các thế hệ cha ông, những anh hùng liệt sĩ, những thương bệnh binh, gia đình có công cách mạng đã sẵn sàng cống hiến khi Tổ quốc cần. Tri ân tinh thần hy sinh cao cả đó chính là trách nhiệm, tình cảm mà các thế hệ hôm nay và mai sau cần thấu hiểu một cách sâu sắc nhất có thể. 
Thông qua những hoạt động tri ân, hướng đến kỷ niệm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27-7), thế hệ trẻ càng thấu hiểu thêm lịch sử oai hùng của dân tộc, thấu hiểu thêm những mất mát, đau thương mà cha ông đã trải qua, đã cống hiến để giành lấy, bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ quốc gia. Thấu hiểu để xác lập trách nhiệm, học tập, rèn đức, luyện tài và phát huy truyền thống, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngàn đời yêu dấu. Những hi sinh anh dũng nơi chiến trường hay thầm lặng giữa thời bình của các thương binh luôn là những tấm gương để thế hệ trẻ hôm nay học tập về tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm,.. Thế hệ hôm nay không trải qua những năm tháng khó khăn đó, mà được nghe kể lại từ trong gia đình, trường học, qua những câu chuyện giản dị, gần gũi do cha mẹ, thầy cô kể lại cho con cháu, học sinh nghe có lẽ là tốt nhất để thế hệ sau thêm hiểu, thêm yêu và tự hào về truyền thống của dân tộc, qua đó phải luôn giữ gìn quý trọng hơn nữa những thành quả mà thế hệ cha ông ta đã đánh đổi.

Lòng yêu nước chính là nguồn năng lượng vô tận và sức mạnh vô địch cần được mọi tầng lớp nhân dân phát huy cao độ. Đó chính là người lính luôn chắc tay súng gìn giữ biên cương, biển, đảo thiêng liêng Tổ quốc; cán bộ, công chức hết lòng hết sức phục vụ nhân dân; tinh thần hăng say lao động, sáng tạo của công nhân nơi nhà máy, nông dân trên đồng ruộng; sự tích cực nghiên cứu những đề tài khoa học của đội ngũ trí thức thúc đẩy phát triển sản xuất, tích cực học tập của học sinh, sinh viên... Và bao giờ hơn hết, mỗi người chúng ta hôm nay hãy thể hiện lòng yêu nước của mình đúng nơi, đúng chỗ, không nên mất bình tỉnh để kẻ xấu lợi dụng, mà hãy luôn giữ vững niềm tin vào những quyết định sáng suốt và đúng đắn của Đảng và Nhà nước. 
Kết quả hình ảnh cho 27/7Những ngày tháng 7 thiêng liêng này, hãy đến với các nghĩa trang liệt sỹ, tin rằng, mỗi người dân Việt Nam, nhất là các bạn trẻ sẽ nhận ra rằng, những gì mà mình biết về cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc còn quá ít ỏi so với những khốc liệt mà cha anh đã thực sự nếm trải, càng tự hào trước sự hy sinh lớn lao của những liệt sĩ đã ngã xuống cho nền hòa bình, tự do của Tổ quốc. Hãy đến để thấy tình yêu đất nước được nhân lên, thấy như mình được tiếp thêm năng lượng và tự nhủ bản thân, cần sống tốt hơn để xứng đáng với những hi sinh, mất mát của cha anh. 

Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, là kim chỉ nam và là lẽ sống của người Việt Nam. Đạo lý ấy, lẽ sống ấy chính là căn cơ làm nên tâm hồn, sức mạnh Việt Nam! Không ai có thể quên những người đã ngã xuống trong các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Máu xương đổ xuống, lịch sử còn mãi khắc ghi ! Ngọc Hân

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2018

Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng

Nhân dịp kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888 - 20/8/2018), Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Tỉnh ủy An Giang biên soạn Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng. TG trân trọng giới thiệu toàn văn bản Đề cương.   
1. Khái lược về thân thế, cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng
Kết quả hình ảnh cho tôn đức thắng
Đồng chí Tôn Đức Thắng sinh ngày 20 tháng 8 năm 1888, trong một gia đình nông dân ở Cù lao Ông Hổ, làng An Hòa, tổng Định Thành Hạ, hạt Long Xuyên, nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Thân phụ là cụ Tôn Văn Đề và thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Dị, đều là những nông dân cần cù, hiền lành, chất phác. Tôn Đức Thắng là con trai đầu lòng cùng một em trai và hai em gái.
Thời thơ ấu, Tôn Đức Thắng được gia đình cho học chữ nho, chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Truyền thống quê hương và những tấm gương anh dũng chống thực dân Pháp của nghĩa quân Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Võ Duy Dương, Nguyễn Tuấn Kiều… đã in sâu trong tâm hồn Tôn Đức Thắng, thắp lên trong lòng cậu học trò những dự định lớn lao.
Sau tốt nghiệp tiểu học ở trường tỉnh Long Xuyên (năm 1906); năm 1907 Tôn Đức Thắng lên Sài Gòn với ý định học việc và thực hiện hoài bão cuộc đời.
Vốn thông minh, có tính độc lập cao, có năng khiếu lao động kỹ thuật, giàu lòng thương người, Tôn Đức Thắng đã nhanh chóng hòa mình vào cuộc sống và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Nhận ra sức mạnh và những bất công mà giai cấp công nhân phải chịu đựng, càng giúp Tôn Đức Thắng thêm quyết tâm thực hiện lý tưởng, khát vọng làm những việc hữu ích cho đất nước, cho dân tộc và giai cấp công nhân.
Năm 1909, Tôn Đức Thắng tham gia vận động anh em học sinh lính thuỷ bãi khóa. Năm 1910, tham gia vận động anh chị em công nhân Sở Kiến trúc cầu đường và nhà ở Sài Gòn chống bọn chủ, cai, đánh đập vô lý và đòi tăng lương. Năm 1912, tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son và vận động học sinh trường Cơ khí Á châu (trường Bá Nghệ Sài Gòn) bãi khoá. Thắng lợi của cuộc đấu tranh bãi công đó đã tiếp thêm niềm tin cho Tôn Đức Thắng vào sức mạnh của giai cấp công nhân và đem lại những kinh nghiệm bước đầu trong việc vận động đoàn kết, tập hợp công nhân chống lại bọn tư bản thực dân.
Năm 1915, Tôn Đức Thắng vào học trường Cơ khí Á châu ở Sài Gòn. Năm 1916, Tôn Đức Thắng làm việc trên chiến hạm Phơ-răng-xơ (France). Tại đây, Tôn Đức Thắng đã tham gia vào sự kiện kéo cờ đỏ trên chiến hạm Phơ-răng-xơ ở Biển Đen vào ngày 20/4/1919 và sau đó bị trục xuất khỏi nước Pháp.
Năm 1920, trở về Sài Gòn, Tôn Đức Thắng tích cực tham gia hoạt động nghiệp đoàn và phong trào của giai cấp công nhân, thành lập và lãnh đạo Công hội bí mật ở Sài Gòn - hình thức tổ chức đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu sự chuyển biến mới của giai cấp công nhân nước ta từ thời kỳ chưa có tổ chức sang thời kỳ có tổ chức.
Tháng 8/1925, Tôn Đức Thắng cùng Công hội đã lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son giành được thắng lợi.
Năm 1927, Tôn Đức Thắng được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (một tổ chức tiền thân của Đảng ta); cũng trong năm đó, đồng chí được cử làm Uỷ viên Ban Chấp hành Kỳ bộ, Bí thư Thành bộ Sài Gòn. Tháng 7/1929, đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam ở Khám Lớn (Sài Gòn), sau đó bị kết án 20 năm khổ sai, tháng 7/1930, bị đày ra Côn Đảo. Tại đây, đồng chí đã tham gia vận động thành lập chi bộ cộng sản nhà tù Côn Đảo và là một trong những Chi uỷ viên đầu tiên.
Ngày 23/9/1945, từ Côn Đảo trở về, ngày 15/10/1945, đồng chí được bầu vào Xứ uỷ Nam Kỳ, phụ trách Uỷ ban kháng chiến, chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam Bộ. Tháng 12/1945, Uỷ ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và các Khu 7, 8, 9 được thành lập, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức hậu cần.
Ngày 06/01/1946, đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I. Tháng 2/1946, được điều động ra Hà Nội để cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc. Ngày 16/4/1946, được cử làm Phó Trưởng đoàn Đoàn đại biểu Quốc hội sang thăm Pháp. Tháng 5/1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập, đồng chí được bầu là Phó Hội trưởng. Ngày 28/10/1946, đồng chí được bầu làm Trưởng đoàn Chủ tịch kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I và kết thúc kỳ họp, được bầu là Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội.
Ngày 30/4/1947, được giao đảm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ nhưng đến ngày 25/7/1947, đồng chí đã xin từ chức, nhường chức vụ trên cho các nhân sĩ yêu nước. Ngày 04/8/1947, đồng chí được bầu làm Thanh tra đặc biệt toàn quốc.
Tháng 01/1948, Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng đã bầu bổ sung đồng chí Tôn Đức Thắng vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cùng năm, được cử làm Trưởng ban Trung ương vận động thi đua ái quốc; Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội.
Ngày 17/5/1950, Hội hữu nghị Việt - Xô được thành lập, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Hội.
Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Tháng 3/1951, tiếp tục được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt).
Tháng 9/1955, đồng chí được phân công giữ chức vụ Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, tại Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ngày 27/2/1957, đồng chí được cử làm Trưởng ban chỉ đạo thanh toán nạn mù chữ Trung ương.
Ngày 15/7/1960, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá II, đồng chí được bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 2/9/1969, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá III, đồng chí được bầu là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Ngày 30/3/1980, đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ trần.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng là một tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy; về tinh thần anh dũng, bất khuất; về đức tính khiêm tốn, giản dị. Trên 60 năm cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc Việt Nam, cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Tôn Đức Thắng vinh dự là người đầu tiên được Quốc hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta, được Đảng, Nhà nước ta trao tặng Huân chương Đại đoàn kết; được Quốc hội nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ trao tặng Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Mông Cổ, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Cu Ba trao tặng Huân chương Hữu nghị Cu Ba, Đoàn Chủ tịch Xô Viết Tối cao Liên Xô trao tặng Huân chương Lênin - Huân chương cao nhất của Liên Xô,… cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.
2. Những cống hiến to lớn của đồng chí Tôn Đức Thắng với cách mạng Việt Nam và thế giới
2.1. Đồng chí Tôn Đức Thắng là người thành lập Công hội bí mật - tổ chức công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam; góp phần quan trọng vào quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Kết quả hình ảnh cho tôn đức thắng
Năm 1920, trở về Sài Gòn, bằng tình cảm yêu mến, sự giác ngộ về Cách mạng Tháng Mười Nga và Nhà nước Xô Viết cùng với những kinh nghiệm trong tổ chức đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đặc biệt là nghiệp đoàn ở Pháp, đồng chí Tôn Đức Thắng đã cùng với những người bạn chiến đấu, thành lập và lãnh đạo Công hội bí mật Sài Gòn. Đây là tổ chức công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Công hội bí mật được thành lập, đánh đấu sự chuyển biến mới của giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ chưa có tổ chức sang thời kỳ có tổ chức.
Từ khi thành lập, Công hội đã liên tục lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân ở Sài Gòn - Chợ Lớn, mà điển hình là cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son (8/1925). Trong những năm 1926 - 1927, Công hội Sài Gòn là cơ sở vững chắc cho sự hình thành và phát triển tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, không chỉ ở Sài Gòn mà trên cả xứ Nam Kỳ. Khi Kỳ bộ Nam Kỳ thành lập, đồng chí Tôn Đức Thắng được cử làm Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ, Bí thư Thành bộ Sài Gòn, phụ trách phong trào công nhân. Với chức trách được giao, đồng chí đã góp phần tích cực thúc đẩy việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho sự ra đời đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) đã khẳng định hoạt động tích cực của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và những học trò của Người trong sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào yêu nước và phong trào công nhân. Tại Sài Gòn, quá trình đó diễn ra thuận lợi vì có sự hoạt động tích cực của Công hội do đồng chí Tôn Đức Thắng sáng lập. Công hội của đồng chí đã bắc nhịp cầu đưa chủ nghĩa Mác - Lênin đến với giai cấp công nhân. Chính sứ mệnh đó, đồng chí Tôn Đức Thắng không chỉ là chiến sĩ tiên phong của phong trào công nhân, một trong những người sáng lập tổ chức công đoàn của giai cấp công nhân Việt Nam, mà còn “là một trong các chiến sĩ lớp đầu của phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta”.
2.2. Đồng chí là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, sáng ngời đạo đức cách mạng
Kết quả hình ảnh cho tôn đức thắng
Tháng 7/1929, đồng chí Tôn Đức Thắng bị thực dân Pháp bắt giam tại Khám Lớn (Sài Gòn) và một năm sau bị đày ra Côn Đảo. Gần mười bảy năm bị giam ở ngục tù đế quốc, đồng chí Tôn Đức Thắng luôn tỏ rõ là một nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù; thương yêu đồng chí và những người cùng cảnh ngộ. Đồng chí đã đề xướng việc thành lập Hội cứu tế tù nhân - hội tù Côn Đảo đầu tiên; góp phần quan trọng vào việc thành lập Chi bộ cộng sản đầu tiên ở nhà tù Côn Đảo, mở ra thời kỳ đấu tranh mới của tù nhân Côn Đảo, thời kỳ đấu tranh có tổ chức, có phương pháp, với mục tiêu cụ thể trước mắt và lâu dài. Đặc biệt khi Chi bộ thực hiện chủ trương biến “nhà tù thành trường học cộng sản”, đồng chí Tôn Đức Thắng tích cực hưởng ứng, gương mẫu học tập và tham gia vào truyền bá những kiến thức về lý luận cơ bản và nội dung huấn luyện cho các tù nhân. Nhờ sự bí mật, khôn khéo, đồng chí Tôn Đức Thắng đã giúp Chi bộ vừa chuyển được thư từ, tài liệu ở Côn Đảo về Sài Gòn, vừa nhận được nhiều sách lý luận gồm những tác phẩm kinh điển Mác, Ăngghen, Lênin... dùng làm tài liệu học tập trong tù.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939), dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, Hội tù nhân do đồng chí Tôn Đức Thắng chỉ huy đã có nhiều hình thức và tổ chức hoạt động phong phú phù hợp với hoàn cảnh mới. Ngày 15/8/1945, Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện; chớp thời cơ, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vùng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tinh thần đó, Đảng ủy Côn Đảo chủ trương đoàn kết các lực lượng tù chính trị trên đảo giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình. Đồng chí Tôn Đức Thắng được cử vào đoàn đại biểu đến gặp Quản đốc Lê Văn Trà, buộc Trà phải đồng ý một số vấn đề như: tổ chức chính quyền liên hiệp trên đảo, sửa chữa vô tuyến điện, sửa chữa radio để nghe tin tức, sửa chữa canô để đưa đại biểu về đất liền xin ý kiến của Chính phủ...
Hình ảnh người chiến sĩ cộng sản Tôn Đức Thắng kiên cường, sáng ngời bản lĩnh và niềm tin tất thắng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc để vượt qua sự khốc liệt của ngục tù đế quốc đã làm các đồng chí đảng viên tù Côn Đảo ngưỡng mộ và kẻ thù khiếp sợ.
2.3. Đồng chí Tôn Đức Thắng là một nhà lãnh đạo mẫu mực của cách mạng Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh
Kết quả hình ảnh cho tôn đức thắngNăm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, từ Côn Đảo trở về đất liền, đồng chí Tôn Đức Thắng được Đảng và Nhà nước ta tin tưởng giao nhiều trọng trách: Phụ trách Ủy ban Kháng chiến kiêm Chỉ huy trưởng lực lượng vũ trang Nam bộ, Phó Hội trưởng và Hội trưởng Hội Liên Việt, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Vận động thi đua ái quốc, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, Trưởng ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam... Đồng chí là Ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới, Chủ tịch Hội Hữu Nghị Việt - Xô. Ở cương vị công tác nào, đồng chí cũng luôn nêu cao ý thức, tổ chức kỷ luật của người đảng viên Đảng Cộng sản; gương mẫu đi đầu, sẵn sàng, gánh vác nhiệm vụ khó khăn nhất; có tinh thần đứng mũi, chịu xào, ý thức trách nhiệm cao với công việc; không màng danh lợi cho bản thân, sống bình dị; nêu gương sáng về sự trung thành, lòng tận tụy phục vụ nhân dân. Đồng chí là một mẫu mực về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, khiêm tốn, giản dị.
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần, được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đồng chí đã cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc đến thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và ra sức xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mặc dù tuổi cao, đồng chí luôn luôn phấn đấu quên mình để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó.
Hơn 60 năm hoạt động, phấn đấu vì lý tưởng của Đảng, vượt qua mọi thử thách nghiệt ngã trong lao tù đế quốc và sự khốc liệt của chiến tranh, luôn gắn bó mật thiết với đồng chí, đồng bào, hiến dâng cả đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những nhà lãnh đạo mẫu mực của cách mạng Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh.
2.4. Đồng chí Tôn Đức Thắng là người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
Kết quả hình ảnh cho tôn đức thắng
Hơn 30 năm liên tục trực tiếp lãnh đạo tổ chức xây dựng, mở rộng, phát triển Mặt trận đoàn kết dân tộc ở nước ta, đồng chí Tôn Đức Thắng đã đóng góp quan trọng và đặc biệt xuất sắc trong việc bồi đắp, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; là người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hình ảnh đồng chí Tôn Đức Thắng sâu đậm về uy tín và đức độ. Đồng chí đã có những đóng góp quý giá về lý luận, làm sáng tỏ và phong phú tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta.
Nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn khẳng định vai trò quyết định của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đồng chí Tôn Đức Thắng đã góp phần xử lý và giải quyết thành công trong cả lý luận và thực tiễn mối quan hệ giữa dân tộc - giai cấp, mối quan hệ giữa quyền lợi của dân tộc với lợi ích của bộ phận để xây dựng Mặt trận đoàn kết dân tộc trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đồng chí Tôn Đức Thắng đã chỉ rằng, Đảng phải nắm bắt và phân tích sâu sắc sự vận động của những điều kiện lịch sử dân tộc và thời đại để làm rõ và xử lý đúng đắn mối quan hệ dân tộc - giai cấp, xác định đúng “những điểm chung cho toàn thể dân tộc” - theo tư tưởng Hồ Chí Minh - trong nội dung các khẩu hiệu chiến lược của cách mạng để tập hợp được lực lượng, đoàn kết dân tộc ở mỗi thời kỳ, để định hướng trong tổ chức, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân và trong việc “điều giải một cách hợp lý” mâu thuẫn và quyền lợi giữa các giai cấp... nhằm phát huy tối đa, sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết của dân tộc ta.
Tổng kết từ thực tế, đồng chí đã chỉ ra rằng: “không phải như một số đồng chí hiểu lầm rằng công tác mặt trận do ngành mặt trận chuyên trách, mà trái lại, toàn Đảng phải chăm lo”. Trong công tác mặt trận phải “nêu cao sự lãnh đạo của Đảng”, phải nắm vững nguyên tắc “Quyền lãnh đạo của Đảng quyết không thể chia sẻ cho ai, quyết không thể làm lu mờ được”. Đồng chí Tôn Đức Thắng khẳng định: Vấn đề hàng đầu để đoàn kết toàn dân là phải đoàn kết từ trong nội bộ Đảng và sự đoàn kết đó không chỉ là sự thống nhất tư tưởng, hành động trong thực hiện đường lối của Đảng mà còn là tình cảm tôn trọng, yêu mến, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người đảng viên cộng sản. Theo đồng chí, “phương pháp duy nhất giúp ta thành tựu ý muốn ấy là tự chỉ trích và thân ái chỉ trích bạn mình”. “Đảng ta cần phải liên hệ tốt với quần chúng, cần phải đoàn kết chung quanh Đảng các giai cấp, các tầng lớp nhân dân cách mạng” và cùng với việc đề ra đường lối, chính sách đúng, Đảng phải có phương thức, lề lối làm việc dân chủ để mọi thành viên trong mặt trận đều được bàn bạc, thống nhất hành động. Đối với những công việc chung, đồng chí cho rằng, cần phải bàn bạc dân chủ, lắng nghe ý kiến của mọi người. Ý kiến đúng chúng ta hoan nghênh, ý kiến sai phải giải thích và thực hiện phương pháp thân ái, tự phê bình trong nội bộ Mặt trận; phải nắm vững nguyên tắc: “Đối với bạn đồng minh, phải vừa đoàn kết, đoàn kết để giữ vững mặt trận cách mạng, đấu tranh để đi đến đoàn kết cao hơn, không thể đoàn kết một chiều, thủ tiêu đấu tranh, cũng không thể đấu tranh vô nguyên tắc ảnh hưởng đến đoàn kết” nhưng phải “tiến hành đấu tranh trong nội bộ mặt trận một cách có lợi, có lý, có chừng mực để chĩa mũi nhọn vào bọn đế quốc xâm lược”.
Do vậy, Đảng phải không ngừng nâng cao trí tuệ, hoàn thiện sự lãnh đạo của mình để xứng đáng là người lãnh đạo chính trị đối với xã hội, lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc, xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân. Đó là tư tưởng và cũng là bài học có tính thời sự hết sức quý báu mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho chúng ta.
2.5. Đồng chí Tôn Đức Thắng là một chiến sĩ quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
Kết quả hình ảnh cho tôn đức thắngĐồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Đồng chí đã tham gia cuộc nổi dậy của hải quân Pháp ở Biển Đen, kéo lá cờ đỏ trên một chiến hạm Pháp (tháng 4/1919), ủng hộ nước Nga (Xô Viết) - nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, chống sự can thiệp vũ trang của bọn đế quốc đối với Nhà nước Xô Viết non trẻ. Với những việc đó, đồng chí Tôn Đức Thắng đã trở thành một gạch nối của Cách mạng Nga với Cách mạng Việt Nam, nối liền Cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
 Trên 60 năm hoạt động cách mạng, với nhiều cống hiến trọn vẹn, liên tục, có hiệu quả cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những nhà lãnh đạo tiêu biểu cho tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, thuỷ chung, được bạn bè thế giới ghi nhận và tôn vinh. Đồng chí được bầu làm Chủ tịch danh dự Ủy ban bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam; Uỷ viên Hội đồng hoà bình thế giới; Chủ tịch Hội hữu nghị Việt-Xô. Trên cương vị nào, đồng chí cũng luôn chăm lo đến tình đoàn kết quốc tế, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân ta với bầu bạn trên thế giới. Trong các hoạt động của mình, đồng chí luôn tranh thủ mọi điều kiện, mọi thời điểm lịch sử để giúp nhân dân tiến bộ trên thế giới thấy rõ bản chất xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, đồng thời bày tỏ khát vọng hòa bình, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam, kêu gọi nhân dân thế giới giúp đỡ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.  
Với công lao, đóng góp to lớn cho phong trào hoà bình thế giới, đồng chí vinh dự là người Việt Nam đầu tiên được Uỷ ban Giải thưởng hoà bình quốc tế Stalin của Liên Xô trao tặng Giải thưởng Stalin “Về sự nghiệp củng cố hoà bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc” vào tháng 12/1955 (sau này mang tên là Giải thưởng Lênin); được Đoàn Chủ tịch Xô Viết Tối cao Liên Xô trao tặng Huân chương Lênin nhân dịp kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và huân chương hữu nghị của nhiều nước.
3. Phát huy truyền thống quê hương, Đảng bộ và nhân dân An Giang cùng cả nước quyết tâm học tập tấm gương đồng chí Tôn Đức Thắng
Kết quả hình ảnh cho tôn đức thắng
An Giang tự hào là quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Trong suốt 88 năm qua, Đảng bộ và nhân dân An Giang luôn kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, noi gương Chủ tịch Tôn Đức Thắng, không ngừng đoàn kết, nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc ta. Đặc biệt, trong hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc qua các nhiệm kỳ, Đảng bộ An Giang đã không ngừng vận dụng và cụ thể hoá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương và đã đạt được những kết quả rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực và các mặt công tác.
Để đưa An Giang phát triển nhanh hơn, bền vững hơn theo hướng công nghiệp hiện đại, xứng đáng là quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020 đã xác định mục tiêu chung: “Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ và hiệu quả quản lý của chính quyền, phát huy dân chủ, kỷ cương, khai thác mạnh mẽ lợi thế trong liên kết vùng và lợi thế so sánh của địa phương, huy động nguồn lực xã hội và tranh thủ ngoại lực tập trung phát triển nông nghiệp theo chiều sâu tạo nền tảng phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch và công nghiệp nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế của An Giang bằng mức trung bình của cả nước, đến năm 2020, quy mô nền kinh tế nằm trong nhóm khá của khu vực đồng bằng Sông Cửu Long”. Với 3 khâu đột phá: Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập, đặc biệt là nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Đổi mới mạnh mẽ khâu tuyển chọn, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ chủ chốt các cấp; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm cải thiện môi trường thu hút đầu tư; đầu tư và ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế. Tập trung cho lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp chế biến.
Trong hơn hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân tỉnh An Giang đã chung sức, đồng lòng, năng động, sáng tạo, vượt qua khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu và giành được những kết quả bước đầu khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Chỉ tính riêng năm 2017, trong điều kiện gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là những tác động tiêu cực, bất thường của biến đổi khí hậu nhưng tỉnh An Giang đã đạt và vượt 17/21 chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP - theo giá so sánh 2010) tăng 5,11%, cao hơn mức tăng của năm 2015: 5,04% và năm 2016: 4,47%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực và dần ổn định: nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 30,90%; công nghiệp và xây dựng chiếm 14,21%; dịch vụ chiếm 53,30%. Toàn tỉnh có 799 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 3.805 tỷ đồng. Tổng số doanh nghiệp đăng ký trên địa bàn tỉnh đến cuối năm 2017 là 8.568 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký là 49.297 tỷ đồng. Tỉnh đã thu hút 86 dự án đầu tư, gồm: 03 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, 83 dự án đầu tư trong nước; tổng vốn đăng ký là 15.168 tỷ đồng. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 820 triệu USD, so kế hoạch đạt 100% và so cùng kỳ tăng khoảng 17%. Nhập khẩu đạt 145 triệu USD, tăng 11,5% so với cùng kỳ và đạt 100% so kế hoạch. Tổng thu ngân sách từ kinh tế địa bàn đạt 5.930 tỷ đồng, đạt 109,71% so dự toán, bằng 115,53% so với cùng kỳ. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ có sự chuyển biến tích cực. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được quan tâm. Công tác đào tạo và dạy nghề được chú trọng, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề được nâng lên, từ 38,8% năm 2016 lên 42,5% năm 2017. Các ngành, các cấp đã tổ chức và thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, các dự án, chương trình giảm nghèo trên địa bàn tỉnh; các chính sách hỗ trợ về tín dụng, giáo dục, y tế... với tổng vốn đầu tư từ ngân sách khoảng 2.032 tỷ đồng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện; quốc phòng, an ninh được giữ vững; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ không ngừng nâng lên; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường.
***
130 năm Ngày sinh Bác Tôn
Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, ôn lại cuộc đời hoạt động cách mạng và những cống hiến to lớn của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, chúng ta càng thêm kính trọng và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đồng chí - một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một người bạn chiến đấu thân thiết lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người chiến sĩ hết sức trung thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một nhà lãnh đạo mẫu mực của Đảng, của dân tộc ta, đã hiến dâng cả cuộc đời cho lý tưởng cộng sản, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hộiĐây cũng là dịp để chúng ta học tập, làm theo đồng chí Tôn Đức Thắng - một gương mẫu đạo đức cách mạng; suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Ban Tuyên giáo Trung ương - Tỉnh ủy An Giang

Việt Nam không cần và không chấp nhận đa Đảng

Dựa trên cơ sở khoa học cụ thể cả về lý luận và thực tiễn, cho phép chúng ta khẳng định rứt khoát rằng: Ở Việt Nam hiện nay không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng!
ĐẰNG SAU NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐÒI ĐA ĐẢNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LÀ GÌ?
Kết quả hình ảnh cho đảng cộng sản việt nam
Đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình” và tuyên truyền phá hoại cách mạng Việt Nam, trong những năm qua, các thế lực thù địch tập trung tung ra nhiều luận điệu đòi thực hiện đa đảng đối lập. Chúng phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam không chịu đổi mới về chính trị, “không chịu thực hiện đa nguyên chính trị, giữ độc quyền lãnh đạo”(!); rằng ở Việt Nam “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”(!). Chúng quy kết: “Độc tài, Đảng trị là cái gốc sai chính của nhà cầm quyền Việt Nam hiện tại”(!) và khuyên rằng “Đảng chỉ nên giữ vai trò lãnh đạo chính trị, không nên và không thể lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối”(!). Các thế lực thù địch đòi chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp, xoá bỏ Điều 4, hiến định về Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội.
Không chỉ dừng lại với những luận điệu trên, chúng còn thống kê, tổng hợp lại toàn bộ những sai lầm, thiếu sót cả về đường lối và chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong quá khứ, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, quản lý xã hội để minh chứng cho sự cần thiết “chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng”(!). Chúng ra sức khai thác, lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái biến chất, tham ô, tham nhũng, kích động nhằm tạo sự phân hóa sâu sắc trong Đảng, làm suy yếu sức mạnh khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân. Chúng hô hào, khuyến khích cải tổ, cải cách, đổi mới triệt để, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trắng trợn hơn, chúng đã ra sức xây dựng, nhen nhóm các tổ chức đảng đối lập phản động, như cái gọi là “Đảng Dân chủ”, “Đảng Dân chủ xã hội”, “Đảng Dân chủ tự do Thiên chúa giáo”, “Đảng Dân chủ tự do Phật giáo”...
Đằng sau tất cả những luận điệu tuyên truyền, hoạt động chống phá ấy, đều không ngoài mục đích hàng đầu và quan trọng nhất là làm suy yếu, đi đến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, loại bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc. Đó là mưu đồ hết sức thâm độc, nham hiểm và trắng trợn của các thế lực thù địch.
Ở VIỆT NAM KHÔNG CẦN VÀ KHÔNG CHẤP NHẬN CHẾ ĐỘ ĐA ĐẢNG!
Dựa trên cơ sở khoa học cụ thể cả về lý luận và thực tiễn, cho phép chúng ta khẳng định rứt khoát rằng: Ở Việt Nam hiện nay không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng!
Trước hết, dưới góc độ lý luận: Trong lịch sử, chế độ đa nguyên, đa đảng đã sớm xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII. Đây là thời điểm giai cấp tư sản đóng vai trò là lực lượng tiến bộ, tích cực đi tiên phong trong đấu tranh chống phong kiến, bảo vệ quyền bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do, dân chủ tư sản. Cơ sở lý luận cho việc thực hiện đa nguyên, đa đảng chính là chủ nghĩa đa nguyên - một trường phái triết học xã hội tư sản do nhà triết học Đức Chiristian Woiff (1679-1754) đề xuất vào đầu thế kỷ XVIII. Chủ nghĩa đa nguyên phủ định tính thống nhất của thế giới, cường điệu cái riêng; phủ nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp; chủ trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên tắc đa lực lượng, đa đảng phái và các tổ chức đảng phái này quan hệ với nhau theo nguyên tắc hiệp thương. Vì vậy, đây là một học thuyết phi mácxít. Nếu áp dụng quan điểm này vào chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân thành một tổ chức tầm thường và nguy cơ phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Như thế, chủ nghĩa đa nguyên là sản phẩm của giai cấp tư sản với thế giới quan phi khoa học, trái với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong khi đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ vẫn mãi xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Chính điều đó đã, đang và sẽ mãi bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng chính trị duy nhất tồn tại, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Do vậy, ở Việt Nam không cần sự tồn tại của chủ nghĩa đa nguyên - một thứ cơ sở lý luận cho việc thực hiện chế độ đa đảng.
Thứ hai, trên phương diện thực tiễn: Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử; là ý nguyện của nhân dân Việt Nam. Điều này được lịch sử minh chứng rõ ràng. Vượt lên trên tất cả những hạn chế về đường hướng, phương pháp của những phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng vô sản ở Việt Nam đã hướng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, do Nguyễn Ái Quốc truyền bá và phát triển mạnh mẽ. Đáp ứng đòi hỏi đó, trải qua quá trình được chuẩn bị chín muồi về chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và đã khẳng định lấy “chủ nghĩa Lênin làm cốt”. Đây là một tất yếu lịch sử và cũng từ đây, chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời đại mới cho lịch sử dân tộc.
Trong thời kỳ 1930 - 1945, lịch sử Việt Nam đã chứng minh, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam chứ không cần thêm bất cứ một tổ chức, đảng phái chính trị nào khác lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành chính quyền mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa xã hội - đó chính là công lao to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong những năm 1945-1946, do bối cảnh tình hình chính trị diễn biến phức tạp, ở Việt Nam, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại một số đảng phái đối lập như Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mạng đồng minh hội..., nhưng trên thực tế, chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng. Các đảng phái, tổ chức đối lập thời kỳ này đã không vì lợi ích quốc gia, dân tộc mà âm mưu phá hoại cách mạng, xoá bỏ chính quyền cách mạng non trẻ, nên bị chính lịch sử và nhân dân ta loại bỏ.
Trong cuộc trường chinh 30 năm (1945-1975) kháng chiến giải phóng dân tộc khỏi ách xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một lần nữa lịch sử và nhân dân lại lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ này, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cũng tồn tại hai đảng khác là Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai đảng này chưa bao giờ đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đều ủng hộ, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sau này hoàn toàn tự nguyện giải tán. Cũng trong thời gian này, còn có những đảng phái thân Pháp, thân Mỹ đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và lợi ích của nhân dân lao động, nên cũng đã bị chính nhân dân ta đấu tranh loại bỏ.
Từ sau năm 1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên, với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển toàn diện, đã một lần nữa khẳng định tính tất yếu khách quan: Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà không cần sự tồn tại của nhiều đảng. Với bản lĩnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh”, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, vượt qua khủng hoảng gay gắt về kinh tế - xã hội, trở thành một quốc gia đang phát triển hết sức năng động. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện; dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng; quốc phòng, an ninh được giữ vững; văn hoá, xã hội có nhiều bước phát triển; vị thế, uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đạt được những tiêu chí cao nhất trong hoạt động chính trị của một đảng cầm quyền (dù là chế độ đa đảng hay một đảng đều phải hướng tới vấn đề cốt tử nhất), đó là: chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng, văn hoá, xã hội phát triển bền vững, an sinh xã hội được bảo đảm. Chính thực tiễn này đã khẳng định, ở Việt Nam hiện nay không cần đa đảng và cũng đúng với nhận định của đồng chí Nguyễn Phú Trọng: “Ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ”(1).
Một trong những luận điệu tuyên truyền được các thế lực thù địch tập trung tung hô, cổ suý nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay là đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để “có dân chủ và phát triển”(!). Họ cho rằng: “Đa đảng là dân chủ, độc đảng là độc tài”(!); Việt Nam phải đa đảng đối lập để có dân chủ “thực sự”(!); “muốn thực sự có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng””(!)... Chúng ta đều biết rằng, dân chủ là phạm trù lịch sử, xuất hiện khi có nhà nước và mỗi nền dân chủ phải gắn với một nhà nước nhất định, được pháp luật quy định. Dân chủ tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Về điều này, C.Mác đã chỉ rõ: “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế xã hội đó quyết định”(2). Trên thực tế, thể chế nhất nguyên một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng nghĩa với mất dân chủ, kém phát triển và dân chủ, phát triển không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng. Trên thế giới hiện nay, có không ít những nước đa đảng, nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển nhất; ngược lại, cũng có những nước chỉ một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ vẫn được bảo đảm, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân sung túc. Điều đó minh chứng là: đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho dân chủ và sự phát triển, đúng như đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn”(3).
Cũng từ thực tiễn lịch sử đã cho thấy, một điều hết sức đau xót đối với cách mạng thế giới, đó là sự đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên bang Xôviết và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào thập niên cuối của thế kỷ XX. Đặc biệt, ở Liên Xô, dưới tác động bởi những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, cùng với sự “phản bội” của một số người trong Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đứng đầu là M.Gorbachev đã đưa tới tại Đại hội bất thường của các đại biểu nhân dân ngày 15-3-1990, quyết định xoá bỏ Điều 6 Hiến pháp Liên Xô, hiến định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bắt đầu từ điểm mốc này, đã hình thành chế độ đa đảng ở Liên Xô, với sự ra đời của vô số các tổ chức, đảng phái chính trị, đối lập cạnh tranh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, để rồi đưa tới một kết cục bi thảm: Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trong hơn 70 năm hoàn toàn sụp đổ vào tháng 8-1991. Chính bài học thực tiễn đau xót này chỉ ra rằng, nếu hiện nay Việt Nam chấp nhận đa nguyên, đa đảng thì kết cục chắc chắn sẽ không khác gì như Liên Xô trước đây.
Cũng cần phải làm rõ hơn, các lập luận của những người muốn thực hiện đa đảng ở Việt Nam thường lấy “thực tiễn” ở các nước tư bản để minh chứng, dẫn tới một số người do thiếu hiểu biết nên đã ít nhiều tin vào những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, mà lầm tưởng rằng cứ nhiều đảng cạnh tranh thì sẽ dân chủ hơn, xã hội phát triển hơn.
Hãy nhìn sang một số nước tư bản hiện nay, nhất là nước Mỹ với sự tồn tại của 112 đảng, nhưng chỉ có hai đảng (Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà) thay nhau cầm quyền. Tuy bề ngoài là chế độ đa đảng đối lập, nhưng xét về bản chất chỉ là một đảng - đảng của giai cấp tư sản. Vì thế, dù Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hoà nắm quyền, cũng đều là đảng của giai cấp tư sản, đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản; dân chủ ở Mỹ không gì khác là nền dân chủ tư sản, nền dân chủ chỉ dành cho một bộ phận thiểu số, một số ít người trong xã hội. Điều này cũng dễ hiểu tại sao ở Mỹ, bên cạnh “một xã hội” với những người có cuộc sống xa hoa, hào nhoáng thì vẫn còn tồn tại “một xã hội” hoàn toàn khác hẳn, gồm hàng chục triệu người phải sống trong sự bất công, thất nghiệp, đói nghèo, bệnh tật, không có quyền dân chủ... Chính người Mỹ, Paul Mishler - Giáo sư trường Đại học bang Indiana đã chỉ rõ nguyên nhân của tình trạng này: Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất học,v.v.. đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra; nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là Đảng Cộng hoà hay Dân chủ(4).
Như vậy, thực chất luận điểm “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mang nặng tính chất mị dân, hết sức nguy hiểm, bởi rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với những người có nhận thức hạn chế. Từ đó, có thể gây nên sự mơ hồ, lẫn lộn, dẫn tới sự dao động về tư tưởng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam; gây nên sự phân tâm trong xã hội; làm suy giảm và mất dần niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng từ những luận điểm này, đã hướng đến việc xoá bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thiết lập nền dân chủ tư sản; nguy cơ gây nên những khó khăn trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, nhất là làm cho chính trị - xã hội mất ổn định, kinh tế suy giảm, văn hoá đạo đức xuống cấp, các mâu thuẫn và xung đột xã hội sẽ gia tăng, phá vỡ khối đoàn kết dân tộc... Từ đó, chắc chắn hậu quả đối với đất nước sẽ vô cùng lớn, chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ đứng trước nguy cơ bị sụp đổ, thành quả cách mạng bao nhiêu năm có được sẽ tan vỡ; người dân không những không được dân chủ, mà xã hội cũng rơi vào rối loạn, khủng hoảng, trì trệ, không phát triển được.
Để không để xảy ra những hậu quả tai hại đó, ở Việt Nam hiện nay, nhất thiết không cần và không thể chấp nhận đa đảng đối lập như các thế lực thù địch mong muốn!
PGS.TS. Nguyễn Xuân Tú

Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2018

Lật tẩy bản chất của tổ chức khủng bố “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”

“Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” là tổ chức phản động lưu vong có hoạt động khủng bố, chống Đảng, Nhà nước Việt Nam. Ngày 30-1-2018, Bộ Công an đã nêu rõ tổ chức này là tổ chức khủng bố; đồng thời công bố thông tin này lên Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an và các phương tiện thông tin đại chúng khác.


Thành lập các nhóm vũ trang để tiến hành các hoạt động khủng bố
Kết quả hình ảnh cho Đào Minh Quân và Phạm Thị Anh ĐàoThế nhưng vì nhiều lý do, động cơ, thời gian qua, vẫn có một số người bị lừa mị, lôi kéo tham gia vào tổ chức khủng bố này. Bằng các biện pháp nghiệp vụ, lực lượng An ninh phối hợp với Công an các đơn vị, địa phương đã đấu tranh, ngăn chặn, vô hiệu hóa các hoạt động khủng bố, chống phá, điều tra xử lý nhiều đối tượng trước pháp luật.
Tổ chức phản động lưu vong “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” do Đào Minh Quân cầm đầu thành lập tại Mỹ. Sau khi thành lập, “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” tăng cường hoạt động tuyển lựa, móc nối người Việt ở các trại tị nạn và khu vực Đông Nam Á vào các tổ chức, sau đó xâm nhập về nước theo con đường hồi hương, tiến hành các hoạt động chống phá. Năm 1995, Tổng cục An ninh, Bộ Công an đã xác lập án, tập trung đấu tranh với tổ chức này.
Quá trình đấu tranh, đã bóc gỡ, xử lý được nhiều đối tượng. Tuy nhiên, từ đầu năm 2015 đến nay, Đào Minh Quân và số cầm đầu bên ngoài tiếp tục tập hợp lực lượng, lập lại tổ chức và tiến hành các hoạt động chống Việt Nam.
Ngày 16-2-1991, tại California nước Mỹ, một số nhóm phản động lưu vong người Việt Nam mà nòng cốt là tổ chức “Phong trào thanh niên, sinh viên Việt Nam Tân dân chủ” (gọi tắt là Việt Nam Tân dân chủ) do Đào Minh Quân (66 tuổi, quốc tịch Mỹ, nguyên Trung úy ngụy) thành lập đã tổ chức đại hội và thành lập ra tổ chức phản động “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” ; bầu Đào Minh Quân làm thủ tướng. Đào Minh Quân cùng đồng bọn đã đề ra tôn chỉ, mục đích cơ cấu tổ chức và phương pháp, thủ đoạn phạm tội.

Theo đó, tôn chỉ và hoạt động của tổ chức phản động này là hoạt động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; lật đổ Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bằng phương pháp bạo động vũ trang. Các đối tượng sử dụng các website, địa chỉ hộp thư điện tử, các blog để liên lạc, chỉ đạo tuyên truyền và phát triển lực lượng.
Về cơ cấu, các đối tượng tổ chức từ cấp trung ương ở ngoài nước và mạng lưới cơ sở ở trong nước. Ở cấp trung ương ngoài nước, tổ chức phản động này thành lập các hội đồng (Hội đồng quốc lão, Hội đồng quốc gia, Hội đồng quốc pháp); Văn phòng thủ tướng (thủ tướng, các phó thủ tướng...); các Bộ (Tư pháp, Nội vụ, Tài chính...).
Ngày 28-12-2014, chúng thành lập “Đảng dân chủ Việt” làm hạt nhân lãnh đạo “Chính phủ”, xây dựng cơ cấu tổ chức gồm 8 hội đồng, 3 viện, 2 văn phòng, 4 sở, 16 bộ; lập các tổ chức ngoại vi như “Hội phụ nữ Tân dân chủ”, “ Tổng cục võ học”; “Bộ Tư lệnh chiến lược toàn quốc...”
Ở trong nước, chúng chia thành 7 quân khu, có bộ tư lệnh quân khu, đứng đầu là các tư lệnh; 4 ban trực thuộc trên 72 tỉnh, 12 thành phố, 4 thị xã. Mỗi đơn vị hành chính có “Bộ chỉ huy nguyện đoàn” đứng đầu là “Chỉ huy trưởng”, lập các “Biệt đội hình sự” độc lập để thực hiện các hoạt động khủng bố mà chúng gọi là “trừ gian, diệt bạo”.
Ngoài ra chúng còn phân chia ranh giới hải đảo, đặt tên các quần đảo của Việt Nam. Các đối tượng sử dụng phương pháp “đấu tranh bạo động” để tập hợp lực lượng, tiến hành các hoạt động khủng bố trong nước, chống phá Đảng và Nhà nước nhằm lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ XHCN ở Việt Nam.
Sau khi thành lập, tổ chức khủng bố “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” đã thực hiện hàng loạt chiến dịch, kế hoạch nhằm phát triển lực lượng và tổ chức xâm nhập về nước hoạt động, mục đích nhằm lật đổ chính quyền nhân dân bằng bạo lực, vũ trang kết hợp nhiều hình thức khác nhau. Đến năm 2007, Bộ Công an đã tiến hành đấu tranh, vô hiệu hóa tổ chức phản động này và làm cho tổ chức ngày càng suy yếu.
Từ cuối năm 2013, Đào Minh Quân cùng đồng bọn sống ở nước ngoài khôi phục hoạt động của tổ chức, củng cố kiện toàn lại cơ cấu tổ chức, đặc biệt là cấp trung ương nhằm phát triển các kế hoạch vào trong nước.
Tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” luôn ca ngợi về Đào Minh Quân và chế độ Việt Nam cộng hòa là chế độ không còn tồn tại sẽ đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân. Nhưng những hoạt động chống phá mà các đối tượng đã thực hiện cho thấy, bản chất chúng là hoạt động khủng bố.
Đào Minh Quân cùng đồng bọn chỉ đạo thực hiện các vụ khủng bố bất chấp các nguy hiểm và hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra; không màng đến tính mạng của các thành viên và người dân. Các đối tượng đã thực hiện nhiều vụ khủng bố, phá hoại.
Nếu lực lượng an ninh của Việt Nam không kịp thời ngăn chặn thì hậu quả nghiêm trọng đã xảy ra. Điển hình như số cầm đầu tổ chức này đã chỉ đạo Đặng Hoàng Thiện cùng đồng bọn gây ra vụ cháy 320 chiếc xe ở kho tạm giữ của Công an tỉnh Đồng Nai; đặt bom xăng tại Sân bay Tân Sơn Nhất...
Cuối năm 2016, Đào Minh Quân đã lôi kéo Phạm Lisa (Phạm Thị  Anh Đào) và một số đối tượng khác cùng mục đích thông qua mạng xã hội chỉ đạo số cơ sở nội địa tăng cường lôi kéo, phát triển lực lượng; tập hợp, thành lập các nhóm vũ trang “ Phượng Hoàng”, “Mãng Xà”, “Biệt động quân”, “Vệ binh quốc gia”; “Đại Việt”... thực hiện ý đồ ba sạch (đốt sạch, giết sạch, phá sạch) nhằm khủng bố, ám sát cán bộ, phá hoại các mục tiêu, công trình trọng điểm trong nước.
Thực hiện ý đồ trên, Đào Minh Quân phân công “Chuẩn tướng Kelly” Triệu (Triệu Thanh Hoa), “Hoàng Quân Jenny” phụ trách phát triển lực lượng kết nạp thành viên vào tổ chức và Phạm Lisa thành lập, chỉ đạo các nhóm vũ trang hoạt động khủng bố nhằm chính quyền nhân dân thông qua mạng xã hội Facebook, Youtube, livestream. Tháng 12-2016, Phạm Lisa thông báo qua mạng xã hội Facebook đã lôi kéo nhiều đối tượng trong nước tham gia tổ chức thành lập các nhóm hành động, thực hiện chủ trương ba sạch.
Nhóm “Biệt động quân” ban đầu đặt tên là “Bàn bạc”, sau đó là “Kẻ đối đầu” và “Biệt động quân” do Trần Văn Hảo (Hảo Trần) là chỉ huy trưởng, cùng với các đối tượng: Trần Nguyễn Khải (Trần Black Kai, Kai Nguyễn) là đội trưởng; Lê Hùng Cường (Cường Nguyễn) là đội trưởng; Thái Hàn Phong là đội trưởng; Đặng Hoàng Thiện, Nguyễn Đức Sinh (Phạm Tuấn, Nguyên Trần, Trương Bảo Thành, Tiên Cao); Trần Văn No làm quân sư...
Nhóm “Phượng Hoàng” gồm các thành viên Thái Hàn Phong, Lê Thanh Hải, Nguyễn Đức Sinh, Nguyễn Ngọc Tiền, Đặng Hoàng Thiện, Nguyễn Thị Chung và Ngô Thụy Tường Vy, chuẩn bị vũ khí, phương tiện tiến hành các hoạt động khủng bố, nhằm chống Nhà nước.
Nhóm “Đại Việt” do Đoàn Văn Thể làm trưởng nhóm, có các thành viên Du Phước Lộc, Dương Giang Bá, Âu Thiên Vũ, Huỳnh Thị Hà Xuyên, Dương Thiên, Lâm Thông, June Nguyễn, Trần Văn No...
Năm 2016, Kelly Triệu thông qua mạng xã hội Facebook đã lôi kéo số đối tượng trong nước tham gia tổ chức phản động “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”, tổ chức thành nhóm khủng bố để chỉ đạo chế tạo, sử dụng “bom khói”, “bom xăng” tấn công lực lượng chức năng khi tham gia biểu tình chống chính quyền nhân dân, ám sát cán bộ, đảng viên.
Nguồn: Xuân Mai - Công an Nhân dân (Còn nữa)