Thứ Hai, 13 tháng 5, 2019

PHAN ĐĂNG LƯU: NGƯỜI CỘNG SẢN KIÊN TRUNG

Phan Đăng Lưu (1902-1941) là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cuộc đời Ông Phan Đăng Lưu là một tấm gương sáng ngời phẩm chất và đạo đức cách mạng của người cộng sản. Nét nổi bật nơi ông là niềm tin tuyệt đối vào Đảng vào thắng lợi của cách mạng. Một niềm tin sắt đá, mãnh liệt, thấm sâu vào tâm hồn ông, thể hiện ở tư tưởng, lời nói, việc làm, ở toàn bộ lối sống của ông.Trong hình ảnh có thể có: 1 người, cận cảnh
Phan Đăng Lưu sinh ngày 05/5/1902 tại xã Tràng Thành (nay là Hoa Thành), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra trong một gia đình tri thức nhà nho yêu nước tại một vùng đất giàu truyền thống quật cường cách mạng. Ông ra đời giữa lúc các cuộc khởi nghĩa nổi dậy chống Pháp ở ngay trong huyện quê ông đang còn để lại những tiếng vang to lớn.
Lúc còn nhỏ nhờ có tư chất thông minh và bằng quyết tâm, ông học rất nhanh chưa đầy hai năm đã tốt nghiệp loại Giỏi. Tuy ham học và học giỏi nhưng trong lòng ông lúc nào cũng sục sôi nổi hận của một người dân mất nước. Cuối năm 1925 ông được kết nạp vào tổ chức cách mạng Hội Phục Việt ở Vinh. Sau đó về quê ông xây dựng ngay cơ sở cách mạng, xây dựng chi bộ của Việt Nam cách mạng Đảng ( sau đó là Tân Việt Cách mệnh Đảng)
Đầu năm 1930 Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. Cũng thời gian đó ông bị giặc Pháp bắt và bị đày lên Buôn Ma Thuột. Tại đây, ông gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Năm 1936 ông được trả tự do và tiếp tục hoạt động cách mạng. Ông được Trung Ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ định vào Ban Chấp hành lâm thời xứ uỷ Trung Kỳ và năm 1938 ông được bầu vào ủy viên ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Tháng 7/1940 xứ ủy Nam Kỳ hội nghị mở rộng để chuẩn bị khởi nghĩa, ông thay mặt Trung ương dự hội nghị . Sau hội nghị ông được cử ra Bắc để báo cáo và xin chỉ thị của Trung ương Đảng. Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1940 nhận định chưa đủ điều kiện để khởi nghĩa ở Nam Kỳ, nên cử ông vào Nam để hoãn cuộc khở nghĩa . Khi đến Sài Gòn thì ông bị bắt ngày 22/11/1940. Địch đã dùng đủ mánh khoé xảo quyệt và dã man, nhưng ông vẫn nêu cao khí tiết cộng sản, bảo vệ bí mật của đảng và lợi ích cách mạng. Từ lúc bước chân vào khám lớn Sài Gòn cho đến lúc ra bãi bắn ông vẫn tràn đầy lạc quan, tin tưởng. Ông vẫn dạy anh em đồng chí học văn hoá, ông chia sẽ từng giọt nước với bầu bạn. Thương yêu chăm non đồng chí về mọi mặt. Ngày 3 tháng 3 năm 1941 đế quốc Pháp mở toà án binh xử một số đồng chí trong đó có ông, ông bị thực dẫn Pháp kết án tử hình. Ông bị bắn ngày 28/8/1941 tại Hooc Môn - Gia Định

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét