Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng mác-xít sáng tạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Tư tưởng của Người không chỉ là sự vận dụng mà còn phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam, phản ánh tinh thần thời đại, xu thế vận động và phát triển của thế giới hiện đại và đương đại.
1. Tấm
gương đạo đức trong chỉnh thể tư tưởng - đạo đức và phong cách của Hồ
Chí Minh.
Tư tưởng của
Người hợp thành một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc và phương pháp
ở tầm chiến lược và sách lược về cách mạng và con đường cách mạng
Việt Nam. Đó là cách mạng giải phóng dân tộc, chống đế quốc thực
dân và phong kiến, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột và nô dịch của
chúng, giành lại độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc, hạnh phúc
cho đồng bào mình và cho các dân tộc đang bị đế quốc thực dân thống
trị. Khát vọng tự do và quyền làm chủ của nhân dân trong một
xã hội công bằng, bình đẳng, dân chủ với thể chế pháp quyền là
một trong những điểm nổi bật, nhất quán của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Động cơ thúc đẩy Người hành động không mệt mỏi để thực hiện,
là: lòng yêu nước, thương dân vô hạn. Suốt đời, Người phấn
đấu và theo đuổi hệ giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Đó là
những giá trị cốt yếu của phát triển. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Cách
mạng Tháng Mười Nga và thời đại được Người giác ngộ, đem lại cho
Người niềm tin khoa học và lập trường cách mạng kiên định, đó cũng là
nguồn sáng chiếu rọi cuộc hành trình tư tưởng - lý luận và tranh
đấu trong thực tiễn của Người trên “Đường cách mệnh”1. Bởi
thế, với Hồ Chí Minh: giải phóng là điều kiện, tiền đề của phát
triển, giải phóng dân tộc để phát triển dân tộc, độc lập dân tộc phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đặt giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, trên lập trường của giai cấp công nhân; đặt cách mạng giải phóng
dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng kiểu mới - cách
mạng vô sản, do Đảng kiểu mới - Đảng Cộng sản cách
mạng chân chính lãnh đạo; xác định cách mạng Việt Nam là một bộ
phận khăng khít của cách mạng thế giới, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội, đó là sự
lựa chọn của Hồ Chí Minh và là chủ kiến, chủ
thuyết phát triển của Người2.
Với Hồ
Chí Minh, cách mệnh là phá cái cũ lỗi thời, lạc hậu đổi ra cái
mới tiến bộ, phát triển. Cách mệnh trước hết phải có Đảng. Đảng
phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa giống như người
không có trí khôn. Chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Lê-nin (Mác – Lê-nin). Người cách mệnh, Đảng cách mệnh phải giác
ngộ, phải theo đuổi chủ nghĩa đó đến cùng. Cách mệnh do Đảng lãnh
đạo phải có lực lượng, Công - Nông là gốc của cách mệnh, phải đoàn
kết toàn dân thành lực lượng to lớn thì cách mệnh mới
thành công. Đoàn kết là một tư tưởng chiến lược, nổi bật, xuyên suốt
đường lối và phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh. Theo Người, thắng
lợi của cách mạng không chỉ dựa vào thiên thời, địa lợi mà
quan trọng, quyết định nhất là nhân hòa, cho nên mọi
quyết sách, việc làm và hành động phải thuận lòng dân,
hợp với ý nguyện của dân, không làm điều gì trái ý dân.
“Vì dân” là mục đích của cách mạng, là lẽ sống của người cách
mạng. Việc gì có lợi cho dân thì quyết làm cho bằng được. Việc gì
có hại tới dân phải quyết tránh cho bằng được. Phục vụ nhân
dân là phục tùng chân lý cao nhất. Suốt đời làm công bộc tận tụy,
làm đầy tớ trung thành của nhân dân là lựa chọn lẽ sống cao thượng
nhất.
Là một điển hình mẫu mực của sự
nhất quán giữa nhận thức và hành động, giữa nói và làm, đã nói
là làm và sống theo phương châm: nói ít làm nhiều, chủ yếu
là hành động, Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng kiệt xuất về
một lãnh tụ của dân, suốt đời vì dân, gắn bó máu thịt với
dân, dấn thân và dâng hiến cả đời
mình trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và hạnh phúc của dân
tộc và nhân dân. Tận trung với Nước, tận hiếu với Dân để tận hiến,
dâng hiến cả cuộc đời và sự nghiệp cho dân tộc, cho cả nhân loại. Đó
là sự cao thượng, vĩ đại của Hồ Chí Minh. Bởi thế, Người sống mãi
trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Không một chút riêng tư,
Người suốt đời đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, kẻ thù nguy hiểm
nhất; thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, làm hư hỏng không ít
người cách mạng, làm suy yếu Đảng như thực tế đã xảy ra, làm cho dân
mất niềm tin, kết cục là thất bại và đổ vỡ. Bài học đau đớn, phải
trả giá đắt ở Liên Xô, Đông Âu cách đây 1/4 thế kỷ vẫn còn nguyên
tính thời sự và ý nghĩa cảnh báo. Điều đó cho thấy đạo đức
cách mạng của người cách mạng, của Đảng cách mạng, nhất
là khi Đảng đã cầm quyền quan trọng biết nhường
nào. Qua đó, thấy được sự mẫn cảm đặc biệt, tầm nhìn xa trông rộng
của Hồ Chí Minh về vấn đề hệ trọng này.
Năm 1927, khi viết tác phẩm “Đường
cách mệnh” - đặt nền móng tư tưởng lý luận, đồng thời chuẩn bị về
chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng, Người đã đặt lên
hàng đầu vấn đề “Tư cách của người cách mệnh”, trong đó nổi bật yêu
cầu “phải giữ chủ nghĩa cho vững”, “phải ít lòng tham muốn về vật
chất”. Di chúc để lại cho đồng bào, đồng chí trước lúc đi xa, Người
căn dặn “Trước hết nói về Đảng”, phải: giữ gìn đoàn kết
thống nhất như giữ gìn con ngươi của mắt mình; ra sức thực hành dân
chủ rộng rãi trong Đảng; thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư,
thật sự xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân. Người còn căn dặn “đầu tiên là công việc với
con người”, Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch và chính sách
thật cụ thể, đúng đắn để chăm lo đời sống của dân, miễn thuế nông
nghiệp cho bà con nông dân, giáo dục truyền thống dân tộc và cách
mạng, chăm lo cuộc sống cho các gia đình chính sách, những người có
công với nước, quan tâm tới sự tiến bộ, trưởng thành của phụ nữ,
thanh niên, v.v. Tình thương yêu của Người dành cho tất cả mọi người,
mọi cảnh đời, mọi số phận, không sót một ai. Nhân ái - Vị tha - Bao dung
là những đặc trưng nổi bật của đạo đức, nhân cách Hồ Chí Minh, hiện
thân sinh động và cảm động nhất về một “Con Người lý tưởng”, hài
hòa Chân - Thiện - Mỹ, kết tinh và thăng hoa những phẩm chất tốt đẹp
nhất của dân tộc Việt Nam hòa quyện với tinh hoa văn hóa nhân loại và
tinh thần thời đại.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách
mạng, tranh đấu quên mình, hy sinh cả cuộc sống riêng tư vì sự nghiệp
mà Người tự nhủ và căn dặn những người cách mạng - những học trò
xuất sắc của Người thuộc thế hệ đầu tiên lập Đảng. Cả cuộc đời và
sự nghiệp, Hồ Chí Minh đã làm tất cả vì Dân, vì Nước; trong gian lao
khó nhọc, cả lúc hiểm nguy thử thách khi bị giam cầm, đọa đầy trong
lao tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, mất liên lạc với Đảng, với dân,
Người vẫn một lòng kiên trinh với lý tưởng, giữ trọn niềm tin với
nghị lực phi thường vượt lên hoàn cảnh. Trước sau như một: “Cả đời
tôi chỉ có mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và
hạnh phúc của quốc dân”3. Đồng thời, Người không ngừng phấn đấu
với một ham muốn tột bậc làm cho Tổ quốc được độc lập, dân tộc được
tự do, đồng bào có hạnh phúc - hạnh phúc bình dị mà vĩ đại: có
cơm ăn, áo mặc, được học hành. Tấm gương đạo đức ấy không gì
có thể mờ phai.
2.
Tấm gương đạo đức sáng ngời trong cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí
Minh.
Trong
cuộc hành trình 30 năm tìm đường, nhận đường và chọn
đường đi cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái
Quốc đã giác ngộ chủ nghĩa Mác, đã đến với nguồn sáng Lê-nin, tìm
thấy trong “Luận cương về quyền tự quyết của các dân tộc” do V.I.
Lê-nin khởi thảo con đường mà bấy lâu nay Người vẫn hằng mong mỏi tìm
kiếm. Người đã nhận thấy chân lý, nhận ra “con đường giải phóng” -
“con đường cứu sống chúng ta”, “cái cẩm nang chỉ dẫn hành động”. Ánh
sáng từ Mác – Lê-nin đến Cách mạng Tháng Mười Nga và thời đại mới
đã tạo nên bước ngoặt trong cuộc hành trình lịch sử của Người. Từ
một người yêu nước, thương dân vô hạn, với tinh thần dân tộc sâu sắc,
Nguyễn Ái Quốc trở thành một người cộng sản, thấm nhuần lý tưởng
cộng sản và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, suốt đời tranh
đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp vĩ đại ấy
thúc đẩy Người dấn thân và hy sinh, một lòng một dạ vì sự nghiệp
cách mạng, mà sâu xa là vì Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của nhân dân,
từ dân tộc mà đến với thế giới nhân loại, từ yêu nước mà đến với
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, là đạo đức chiến đấu và hy sinh,
từ dấn thân đến dâng hiến, suốt một đời gần dân, vì dân, thấu hiểu
cuộc sống của dân và thấu cảm lòng dân. Trả lời nhà báo Cộng
sản Cu Ba, Người nói: “Tôi tự nguyện dâng hiến đời tôi cho dân tộc” và
“Mỗi người có một nỗi đau riêng, mỗi gia đình có một nỗi khổ riêng.
Gộp tất cả nỗi đau khổ đó lại thành ra nỗi đau khổ của bản thân
tôi!”. Lời nói chân thành tự trái tim Người có sức lay động muôn
triệu trái tim.
Người luôn căn dặn cán bộ, đảng viên
và công chức “dân là chủ và dân làm chủ”. Phải dân chủ chứ không được
“quan” chủ, là đầy tớ công bộc của dân chứ không lên mặt “quan” cách
mạng. Theo Người, đối với nhân dân của mình, họ là những
người chủ đích thực chứ không phải thần dân, và Người “không phải là
vua”4 mà là đầy tớ, công bộc của dân, “kính trọng lễ
phép với dân”, “gần dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân, tin dân để thương
dân và suốt đời chỉ vì dân mà sống mà tranh đấu”. Bày tỏ lòng biết
ơn, lời cảm ơn trước tình cảm thương mến của mọi tầng lớp nhân dân
dành cho mình, Người nói: “Từ trước đến giờ tôi đã là người của đồng
bào thì từ giờ về sau, tôi mãi mãi thuộc về đồng bào”. Đó là điển
hình cho tình yêu, sự thủy chung của lãnh tụ vì dân.
Tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ ở chỗ Người nêu gương đạo
đức trong tranh đấu, từ chống giặc ngoại xâm đến chống “giặc nội xâm” mà
Người còn nêu gương suốt đời trong thực hành cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư để toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc. Là Chủ tịch Nước, ở cương vị nguyên thủ quốc gia,
đồng thời là Chủ tịch Đảng5, Người là tấm gương sáng ngời
về cần, kiệm, liêm, chính, tuyệt đối không màng danh lợi, đứng ngoài
vòng danh lợi, chỉ luôn coi mình là một người lính vâng lệnh quốc dân
đồng bào, làm tròn nhiệm vụ do dân ủy thác. Khi chủ trì phiên họp
đầu tiên của Chính phủ (ngày 03-9-1945), Người đưa ra sáu vấn đề cấp
bách phải làm ngay để lo cuộc sống cho dân6. Đặc biệt, Người
chủ trương: “mở cuộc vận động kêu gọi các thành viên chính phủ” nhịn
ăn để lấy gạo nuôi dân, cứ 10 ngày nhịn một bữa không chết đâu nhưng
dân thì có bữa cơm bữa cháo, mỗi bữa là một bơ gạo, góp chung lại cứu
dân nghèo và tôi xin làm trước tiên”. Người còn cẩn thận đến mức nếu
đến ngày quy định nhịn ăn mà Người có việc phải tiếp khách thì
Người sẽ nhịn bù vào hôm sau. Đã nói là làm, từ việc nhỏ đến việc
lớn, lời nói đi đôi với việc làm, làm gương và nêu gương cho mọi
người. Tấm gương ấy của Người làm cảm động muôn người; là tấm gương
sống, quý hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền. Bởi thế, Chính phủ
do Người đứng đầu thực sự là Chính phủ, là Nhà nước của
dân, vì dân, hành động vì dân bởi rất mực thương dân.
Đạo đức Hồ Chí Minh có sức lay động, cảm hóa muôn triệu đồng
bào trong nước và thu hút sự ngưỡng mộ, kính trọng của bạn bè quốc
tế. Ngày đầu tiên trong hoạt
động của Nhà nước (03-9-1945), Người đã có thư gửi quốc dân đồng
bào, công bố lịch tiếp dân, tiếp đại biểu các giới đồng
bào và các đoàn thể, “từ văn hóa giới, công giáo, công hội, thương
giới, thanh niên, phụ nữ, công chức, Phật giáo, cho đến nông hội, Hoa
kiều và các cháu nhi đồng”7. Trong đó, nêu rõ: “Xin gửi thư
nói trước để tôi sắp xếp thời giờ rồi trả lời bà con, khỏi mất
thời giờ chờ đợi mất công”. Người nêu yêu cầu “mỗi đoàn không quá
mười vị, mỗi lần không quá một tiếng đồng hồ”8. Tôn trọng
dân chủ, thiết tha lắng nghe tiếng nói của người dân như vậy, đó
thực sự là đạo đức, là văn hóa đạo đức trong chính trị của Hồ Chí
Minh.
Hiếm có vị chủ tịch nước nào như
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sống đạm bạc, đến mức khắc khổ trong cái ăn,
cái mặc hằng ngày; bởi thương dân mà tiết kiệm, bởi lãng phí là
không thương dân, bởi mỗi đồng tiền bát gạo mà ta tiêu dùng đều do mồ
hôi, nước mắt của dân làm ra. Người lên án gay gắt và nghiêm trị theo
luật pháp những hành vi tham ô, tham nhũng, coi đó là bất liêm, bất
chính, bất nghĩa, phải trừng trị như trừng trị một tội ác. Người
nói cho cán bộ, công chức rõ, đồng bào đem mồ hôi nước mắt để làm
ra tiền của, để trả lương cho ta. Nếu lười biếng và vô trách nhiệm
trong công việc hàng ngày là lừa gạt dân chúng. Người
lấy mình làm gương, chú trọng giáo dục đạo đức cho cán bộ
đảng viên, công chức và rèn luyện kỷ luật công vụ,
xiết chặt kỷ cương, nề nếp hành chính, sớm thành lập thanh tra chính
phủ để kiểm soát hoạt động của bộ máy và hành vi công chức. Những
biện pháp ấy đều chỉ vì mục đích “phục vụ dân” và “bảo vệ dân”.
Tấm gương Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở đức trung thực,
khiêm tốn, vị tha, nhân ái, khoan dung, thấm nhuần chất nhân văn trong
tham chính và cầm quyền, trong ứng xử với
người, với việc, mà cao hơn tất cả là tình thương yêu dành cho dân
chúng mãi không bao giờ thay đổi. Khi gửi thư chúc mừng thượng thọ
một cụ già 80 tuổi (lúc đó Người đã 60 tuổi) mà Người xưng hô là
cháu: “Cháu xin thay mặt Chính phủ chúc thọ Cụ. Chúc Cụ sống lâu
muôn tuổi để cùng con cháu kháng chiến kiến quốc tới ngày thắng
lợi”. Người lấy tiền tiết kiệm của mình để mua nước ngọt gửi ra trận
địa cho bộ đội đang trực chiến giữa những trưa hè nóng nực. Người
viết thư loan báo cho đồng bào rõ: để tỏ lòng biết ơn các liệt sĩ
đã hy sinh vì Tổ quốc và những gia đình có công với nước, Người sẽ
nhận tất cả con liệt sĩ là con mình, v.v. Mỗi một chiến sĩ ngã xuống
trên chiến trường, Người như đứt từng khúc ruột. Người rộng lòng bao
dung khoan thứ, kiềm chế ngay cả những lúc Người không hài lòng trước
những việc làm sai, những người làm hỏng. Người căn dặn “phê bình
việc chứ không phê bình (với ý xúc phạm) người”. Trong Di chúc, Người
căn dặn “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, phê bình có lý
có tình, ứng xử có tình có nghĩa,... Người để lại muôn vàn tình
thương yêu cho đồng bào, đồng chí và không quên gửi lời chào bạn bè
quốc tế và nhân dân thế giới, v.v.
Một con người,
một nhân cách, với tấm gương đạo đức sáng ngời như thế mà lại tự
thấy mình chưa xứng đáng, từ chối nhận huân chương. Người đã trở về
với thế giới người Hiền gần nửa thế kỷ, nhưng không lúc nào ta cảm
thấy Người đi xa, Người vẫn ở bên ta như động viên, nhắn nhủ, thúc
giục để ở đời thì phải thân dân, làm người thì phải chính
tâm, xứng đáng là đầy tớ trung thành, công bộc tận tụy của dân.
Tấm gương đạo đức ngời sáng Hồ Chí Minh còn sáng mãi trong
cuộc đời, trong dân tộc và thế giới, còn sống mãi với
thời gian.
Như thế,
nhà tư tưởng Hồ Chí Minh còn đồng thời là nhà đạo đức học Hồ Chí
Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, người chiến sĩ kiên cường đấu tranh
cho tự do, cho phẩm giá con người, người bạn lớn của nhân dân các dân
tộc trên thế giới, nhà văn hóa kiệt xuất. Thực hành biền bỉ và nêu
gương mẫu mực về đạo đức ở đời và làm
người, đó là tư tưởng mà cũng là đạo đức, đó
là phương pháp mà cũng là phong cách Hồ
Chí Minh mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức học tập và
làm theo.
Tấm gương đạo
đức sáng ngời của Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân
tộc, của Đảng ta, là niềm tự hào của mọi thế hệ người Việt Nam,
là sức mạnh tinh thần, trở thành động lực thúc đẩy chúng ta trong
đổi mới, hội nhập để phát triển. Tấm gương đó tỏa sáng trong tư
tưởng, đạo đức và phong cách của Người, trở thành giá trị chuẩn
mực và định hướng giá trị trong giáo dục và thực hành đạo đức cho
các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau. Đạo đức và tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh còn có ảnh hưởng và hiệu ứng rộng rãi trong
đời sống tinh thần của nhân dân các dân tộc trên thế giới, bởi những
người bạn bè, anh em của Việt Nam với tất cả tấm lòng chân thành,
tin cậy đều dành cho Người sự khâm phục, ngưỡng mộ và kính trọng.
“Việt Nam - Hồ Chí Minh”, “Việt Nam - Bác Hồ”, từ lâu đã được các
bạn bè quốc tế của chúng ta cất lên tiếng nói, tiếng gọi trìu mến,
thân thương khi đến Việt Nam - Tổ quốc của Người, khi đến thăm nơi ở
và làm việc của Người tại Thủ đô Hà Nội, “ngôi nhà sàn đơn sơ giản
dị, ngát hương thơm cây cỏ hoa vườn nhưng tâm hồn lộng gió bốn phương thời
đại” (Phạm Văn Đồng). “Hồ Chí Minh” và “Bác Hồ” đã từ lâu trở thành
từ vựng quen thuộc, không chỉ là biểu tượng của nhà chính trị lỗi
lạc mà sâu xa, rộng lớn hơn là nhà văn hóa lớn, biểu trưng cho văn
hóa đạo đức, cho văn hóa nhân cách Việt Nam trong thời đại Hồ Chí
Minh.
Sự thật ấy
của lịch sử, tự nó đã bác bỏ tất cả những gì mà những kẻ thù
địch đang ra sức xuyên tạc, chống phá cách mạng Việt Nam, mưu toan hạ
thấp giá trị Hồ Chí Minh, gieo rắc những giả tượng xuyên tạc bản
chất, cố tình ngụy tạo, với ác ý thâm độc gây ra những hoài nghi về
đạo đức và tấm gương đạo đức của Người, nhất là đối với những
người trẻ tuổi sinh ra và lớn lên trong thời hiện tại, không có những
trải nghiệm thực tiễn trong quá khứ như các lớp cha anh của họ. Cũng
có những kẻ cơ hội, xu thời, đã từng thụ hưởng những ân huệ đầy
tình nghĩa của chế độ dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh sáng lập,
chỉ vì lòng dạ không còn trong sáng nữa, mang nặng những thiên kiến
chủ quan, chủ nghĩa cá nhân, hám danh, vụ lợi và vị kỷ mà cố tình
xuyên tạc sự thật hoặc đồng lõa với những kẻ xuyên tạc. Họ chẳng
thể vấy bẩn được ai mà tự vấy bẩn chính mình, tự hạ thấp mình mà
thôi.
Lịch sử vốn
công minh, khách quan. Trí tuệ của nhân dân là sáng suốt. Dư luận thế
giới là rộng lớn. Những ai có lương tri và trọng phẩm giá con người đều
nói tiếng nói trung thực, có cốt cách của học thức và văn hóa trong
cảm nhận, đánh giá về Hồ Chí Minh. Và đây là dòng chủ đạo,
tự nó đã có sức mạnh phủ định và phê phán những giọng điệu lạc
lõng xuyên tạc về Việt Nam, về Đảng và Bác Hồ./.
Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple@gmail.com)
Trả lờiXóa