Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra
những thách thức, đó là: nguy cơ thất nghiệp và tình trạng phân hóa giàu nghèo
ngày càng tăng có thể dẫn đến những bất ổn về chính trị - xã hội; những nguy cơ
đối với độc lập, chủ quyền, sự lựa chọn định hướng chính trị... Đòi hỏi chúng
ta phải “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ” nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực từ quá trình hội
nhập. Cụ thể là: tiếp tục hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc
đẩy chuyển dịch và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao khả năng cạnh
tranh; đón đầu các thành tựu khoa học - công nghệ và quản lý tiên tiến của thế
giới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực...
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, trong đó “chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” là
định hướng cơ bản, lâu dài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần
quan trọng vào mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế
giới, thực hiện hiệu quả chủ trương này, vấn đề ổn định chính trị là hết sức
quan trọng.
Công cuộc đổi mới đã thu được nhiều kết quả,
kinh tế - xã hội đất nước đã và đang chuyển mình mạnh mẽ tạo nên sức mạnh nội
lực cho đất nước, đói nghèo lạc hậu đang dần dần được đẩy lùi, đời sống nhân
dân được từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, những hạn chế, yếu kém vẫn còn,
nhất là sự phát triển chậm của nền kinh tế. Nhận rõ những hạn chế, yếu kém tồn
tại, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, đề ra
những giải pháp sửa chữa, khắc phục, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự
phát triển của đất nước. Làm thế nào để hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc
tế, tạo đà phát triển mà vẫn giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã
hội là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân ta hiện
nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII số 06-NQ/TW ngày 5-11-2016 về
“thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới”, chỉ rõ ổn định chính trị gắn với phát triển kinh tế là nền tảng
cho sự phát triển bền vững đất nước.
Ổn định chính trị là độ bền vững và tính toàn
vẹn của một chế độ chính quyền hiện hành dưới sự lãnh đạo của đảng chính trị.
Điều này được xác định dựa trên sự phục tùng quyền lực một cách tự nguyện tự
giác hay sự chống đối, hiện tượng bạo lực diễn ra trong cả nước thực hiện bởi
các công dân liên quan đến nhà nước. Một xã hội có nền chính trị ổn định là một
xã hội trong đó người dân hài lòng với đảng cầm quyền và hệ thống chính trị, tự
nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân một cách chủ động và mang tính
tích cực xã hội cao. Sự ổn định chính trị là một trong những yếu tố không thể
thiếu, góp phần giúp Việt Nam có thể kiên trì chính sách phát triển kinh tế.
Nền chính trị ổn định tạo cho Việt Nam có được một nền hòa bình và thịnh vượng.
Nếu nhìn sang một số quốc gia khác trong khu vực, dễ thấy rằng, trừ Singapore,
thì từ năm 1990 trở lại đây, hầu hết các nước đều trải qua các cuộc đảo chính
hay khủng hoảng chính trị. Trong khi đó, nền chính trị của Việt Nam luôn ổn
định, đây là một bảo đảm cho sự gắn kết để thực hiện chính sách kinh tế nhất
quán. Thành công của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam cũng là dựa trên sự ổn định
chính trị.
Về mặt chính trị, sự kiện quan trọng có tính
chất đột phá trong lãnh đạo công cuộc đổi mới chính là sự ra đời của Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991).
Đảng ta xác định xây dựng CNXH ở Việt Nam là quá trình lâu dài, trải qua nhiều
chặng đường với yếu tố quan trọng, điều kiện tiên quyết là phải giữ vững được
ổn định chính trị.
Ổn định xã hội tiếp cận dưới góc độ xã hội
học là sự đoàn kết xã hội dựa trên sự cân bằng các mối quan hệ xã hội, là việc
các cá nhân trong xã hội thừa nhận và cùng chia sẻ những quan điểm phổ quát.
Điều này sẽ tạo nên một xã hội cân bằng và thúc đẩy sự chung sống hài hòa trong
cộng đồng. Xã hội với rất nhiều những bộ phận khác nhau, các giai tầng xã hội
khác nhau nhưng lại cần có sự liên kết, hợp tác để cùng phát triển. Vì vậy, ổn
định xã hội gắn với sự phối hợp nhịp nhàng của toàn bộ hệ thống xã hội trên tất
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Quá trình phát triển của
cách mạng Việt Nam luôn gắn với tinh thần đoàn kết, sự chung tay, góp sức của
mọi ngành, mọi cấp. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tạo nên tính ổn
định xã hội, đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trước những
khó khăn, chính nhờ có sự đồng thuận của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
dân tộc Việt Nam đã làm nên những kỳ tích có ý nghĩa thời đại. Truyền thống dân
tộc, lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng là sức mạnh to
lớn để dân tộc Việt Nam tiến lên phía trước. Ổn định chính trị, nền tảng để
phát triển đất nước, chính là điều mà mỗi người cần nhận thức một cách đầy đủ
để có hành động đúng đắn, sáng suốt. Sự ổn định chính trị chỉ được xây dựng
vững chắc trên nền tảng lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; sự quản
lý, điều hành của Nhà nước.
Ngày nay, toàn cầu hóa mà trước hết là toàn
cầu hoá về kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống xã hội, đến mọi
quốc gia, dân tộc. Không quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển được mà tách
biệt, cô lập với thế giới. Mở cửa, chủ động gia nhập vào quá trình toàn cầu hoá
chính là điều kiện thuận lợi để kết hợp và phát huy sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong phát triển. Nhận thức sâu sắc tính tất yếu đó, Đảng ta luôn
coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh
tổng hợp là một trong những bài học kinh nghiệm lớn trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội XI, một lần nữa, bài học kinh
nghiệm này được nhấn mạnh: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế... phát huy cao độ nội lực, đồng thời
tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”(1).
Sự ổn định chính trị - xã hội vừa là tiền đề,
vừa là kết quả của những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế của Việt Nam
và là điều kiện thuận lợi cho phát triển quan hệ với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng ta, là
nội dung trọng tâm của hội nhập quốc tế và là một bộ phận quan trọng, xuyên
suốt của công cuộc đổi mới. Trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, các chủ trương cơ
bản về hội nhập kinh tế quốc tế được nêu tại các kỳ Đại hội Đảng với quyết tâm
đẩy mạnh hội nhập kinh tế để tăng trưởng và phát triển.
Trong những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam đã có bước phát triển mới cả về chiều rộng và chiều sâu thông qua
việc ký kết, thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, bao gồm
những thỏa thuận không chỉ về tự do hóa thương mại và đầu tư mà còn gồm cả các
cam kết về lao động, công đoàn, sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp nhà nước và nhiều
vấn đề về chính trị, văn hoá, xã hội rất phức tạp và nhạy cảm khác. Việc Cộng
đồng Kinh tế ASEAN chính thức hình thành vào cuối năm 2015, triển khai thực
hiện Hiệp định Thương mại tự do với Hàn Quốc, với Liên minh Kinh tế Á - Âu, đặc
biệt là việc ký kết và chuẩn bị phê chuẩn Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương và Hiệp định thương mại tự do với EU đã và sẽ mở ra nhiều thời cơ, thuận
lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức mới, không chỉ về kinh tế
mà còn cả về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, văn hóa, xã hội.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra
triển vọng mới cho nền kinh tế Việt Nam, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế trên
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực với các quốc gia trong khu vực và thế giới, nâng
cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Quá trình này cũng tác động mạnh
đến sự tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
năng lực sản xuất, mở rộng thị trường trong các lĩnh vực: công nghiệp, thương
mại, các ngành dịch vụ...; thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều thành phần phù hợp, theo đó tập trung nhiều
hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá
trị gia tăng cao; thúc đẩy thương mại, tăng thu hút đầu tư nước ngoài và mở
rộng quan hệ hợp tác phát triển.
Trong mối quan hệ biện chứng này, hội nhập
quốc tế và độc lập, tự chủ có mặt thống nhất, đồng thời cũng có mặt mâu thuẫn
nhau. Hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ kinh tế là mối quan hệ lớn “xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng”(2). Hội nhập quốc tế tạo nguồn lực và môi trường để
tăng tiềm lực cho nền kinh tế độc lập tự chủ. Hơn nữa, hội nhập quốc tế là cách
thức thực hiện độc lập tự chủ tốt nhất trong điều kiện toàn cầu hóa. Hội nhập
kinh tế quốc tế góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống
cho người lao động. Các ngành có tốc độ tăng việc làm cao cũng là những ngành
mở cửa nhanh và có sự đầu tư hợp tác lớn hơn hoặc những ngành áp dụng công nghệ
mới để cạnh tranh, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng như công nghệ chế
tạo, xây dựng, tài chính ngân hàng, khoa học công nghệ; tác động tích cực tới
tiền lương và thu nhập của mọi tầng lớp cư dân, tăng năng suất lao động, nâng
cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời với quá trình đó, chúng ta cũng đón
đầu tiếp thu được các thành tựu của khoa học - công nghệ và kỹ năng quản lý
tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, kỹ thuật,... áp dụng
vào nền sản xuất xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động.
Bên cạnh đó, hội nhập sâu rộng cũng đặt ra yêu cầu về hoàn thiện thể chế
trong nước trên góc độ: pháp luật và tổ chức bộ máy, cùng với nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. Điều này tạo hiệu ứng tích cực thúc đẩy đổi mới và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường toàn diện, hoàn thiện môi trường kinh
doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế nước ta trong dài
hạn, tạo ra môi trường kinh doanh năng động và ngày càng bình đẳng, minh bạch,
hướng tới sự thích ứng, phù hợp với chuẩn mực và luật pháp quốc tế. Đặc biệt,
quá trình này là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam có thể vươn ra thế giới, liên
doanh, liên kết, hợp tác thương mại, tham gia chuỗi giá trị và mạng lưới sản
xuất khu vực, chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, tập trung nhiều
hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có hàm lượng công nghệ và giá trị gia
tăng cao hơn. Đứng trước những vấn đề đó, từ năm 2010 đến nay, chúng ta đã
chuyển sang giai đoạn chủ động đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự
do với nhiều nước trong khu vực và thế giới, tạo điều kiện quan trọng cho cải
cách kinh tế trong nước và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp, nâng cao
lợi thế cạnh tranh của hàng hóa. Hơn thế nữa, kết quả hội nhập kinh tế to lớn
đó còn giúp Việt Nam thực hiện chiến lược cơ cấu lại thị trường xuất khẩu theo
hướng cân bằng hơn, thúc đẩy cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế, tăng cường
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập cũng có những
khó khăn, thách thức như: hội nhập với các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ đe dọa
đến sự tồn tại của một số doanh nghiệp trong nước, ảnh hưởng tới chính trị, văn
hoá của một quốc gia. Thách thức lớn nhất hiện nay là nước ta vẫn là một nước
đang phát triển, trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và
bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân ít và thiếu tính chuyên nghiệp, sức
cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh
tế, thương mại, ngoại giao chưa hoàn chỉnh... Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn
lớn trong cạnh tranh ở trong nước và thị trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra
gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn. Nếu không
có biện pháp khắc phục, vượt qua những khó khăn này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến
sức cạnh tranh của nền kinh tế và gây nên những bất ổn về chính trị. Về mặt xã
hội, hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra thách thức không nhỏ đối với nước ta trong
việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với xóa đói, giảm nghèo,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bản chất lợi ích của toàn cầu hoá được
phân phối một cách không đồng đều, những nước có nền kinh tế phát triển thấp
được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ phận dân cư
được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá;
nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng lên và có thể dẫn tới
những bất ổn về chính trị. Vấn đề gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế trở thành
nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách của nền kinh tế hội nhập ở nước ta hiện nay.
Hội nhập quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa, sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa
các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình chính
chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính
trị trong nước.
Trên lĩnh vực văn hóa, hội nhập quốc tế đặt
nước ta trước nguy cơ bị các giá trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng,
chạy theo đồng tiền), nhất là các giá trị văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm
tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc. Trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập
quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe dọa
độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng
chính trị, vai trò của Nhà nước...
Trong thời gian tới, tình hình thế giới và
khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế tiếp tục được đẩy mạnh. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới,
các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định song phương, đa phương thế
hệ mới. Trong khi đó, Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng
đồng kinh tế ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới,
hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn rất nhiều so với giai đoạn
trước. Do vậy, trong giai đoạn mới đòi hỏi chúng ta phải chủ động và tích
cực hơn nữa trong việc tận dụng các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế mang
lại, vuợt qua các khó khăn thách thức, giảm thiểu các tác động tiêu cực của quá
trình hội nhập.
Quán triệt chủ trương của Đại hội XIIvề
đẩy mạnh hội nhập quốc tế và Nghị quyết số 06-NQ/TWvề thực hiện có
hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã
hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới là một nội dung trọng tâm trong các kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội, với mục tiêu thúc đẩy và tăng cường hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển bền vững; đổi mới mô hình
tăng trưởng, thúc đẩy chuyển dịch và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao
khả năng cạnh tranh; tích cực tham gia sâu và rộng vào chuỗi giá trị khu vực và
toàn cầu. Trong phát triển kinh tế và thương mại, cần chú trọng việc đổi mới
công nghệ và bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ nước ta
trên thị trường quốc tế. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa của Đảng, trong đó “chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” là
chủ trương định hướng cơ bản, lâu dài cho những năm tiếp theo trong quá trình
hội nhập quốc tế, góp phần quan trọng vào mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao vị thế, uy tín của Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở giữ
vững ổn định chính trị - xã hội là một chủ trương nhất quán và là nội dung
trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta
trong quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế
của Đảng, đất nước đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và
thế giới. Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã
góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị
thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo nền móng cho việc xây dựng
thành công CNXH trên đất nước ta./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét