Thứ Ba, 13 tháng 3, 2018

Hội nhập quốc tế về kinh tế với ổn định chính trị - xã hội


Quá trình hội nhập kinh tế  quốc tế đang đặt ra những thách thức, đó là: nguy cơ thất nghiệp và tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng có thể dẫn đến những bất ổn về chính trị - xã hội; những nguy cơ đối với độc lập, chủ quyền, sự lựa chọn định hướng chính trị... Đòi hỏi chúng ta phải “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực từ quá trình hội nhập. Cụ thể là: tiếp tục hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy chuyển dịch và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh; đón đầu các thành tựu khoa học - công nghệ và quản lý tiên tiến của thế giới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực...
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, trong đó “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” là định hướng cơ bản, lâu dài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng vào mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, thực hiện hiệu quả chủ trương này, vấn đề ổn định chính trị là hết sức quan trọng.
Công cuộc đổi mới đã thu được nhiều kết quả, kinh tế - xã hội đất nước đã và đang chuyển mình mạnh mẽ tạo nên sức mạnh nội lực cho đất nước, đói nghèo lạc hậu đang dần dần được đẩy lùi, đời sống nhân dân được từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, những hạn chế, yếu kém vẫn còn, nhất là sự phát triển chậm của nền kinh tế. Nhận rõ những hạn chế, yếu kém tồn tại, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, đề ra những giải pháp sửa chữa, khắc phục, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Làm thế nào để hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, tạo đà phát triển mà vẫn giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII số 06-NQ/TW ngày 5-11-2016 về “thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”, chỉ rõ ổn định chính trị gắn với phát triển kinh tế là nền tảng cho sự phát triển bền vững đất nước.
Ổn định chính trị là độ bền vững và tính toàn vẹn của một chế độ chính quyền hiện hành dưới sự lãnh đạo của đảng chính trị. Điều này được xác định dựa trên sự phục tùng quyền lực một cách tự nguyện tự giác hay sự chống đối, hiện tượng bạo lực diễn ra trong cả nước thực hiện bởi các công dân liên quan đến nhà nước. Một xã hội có nền chính trị ổn định là một xã hội trong đó người dân hài lòng với đảng cầm quyền và hệ thống chính trị, tự nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân một cách chủ động và mang tính tích cực xã hội cao. Sự ổn định chính trị là một trong những yếu tố không thể thiếu, góp phần giúp Việt Nam có thể kiên trì chính sách phát triển kinh tế. Nền chính trị ổn định tạo cho Việt Nam có được một nền hòa bình và thịnh vượng. Nếu nhìn sang một số quốc gia khác trong khu vực, dễ thấy rằng, trừ Singapore, thì từ năm 1990 trở lại đây, hầu hết các nước đều trải qua các cuộc đảo chính hay khủng hoảng chính trị. Trong khi đó, nền chính trị của Việt Nam luôn ổn định, đây là một bảo đảm cho sự gắn kết để thực hiện chính sách kinh tế nhất quán. Thành công của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam cũng là dựa trên sự ổn định chính trị.
Về mặt chính trị, sự kiện quan trọng có tính chất đột phá trong lãnh đạo công cuộc đổi mới chính là sự ra đời của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991). Đảng ta xác định xây dựng CNXH ở Việt Nam là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường với yếu tố quan trọng, điều kiện tiên quyết là phải giữ vững được ổn định chính trị.
Ổn định xã hội tiếp cận dưới góc độ xã hội học là sự đoàn kết xã hội dựa trên sự cân bằng các mối quan hệ xã hội, là việc các cá nhân trong xã hội thừa nhận và cùng chia sẻ những quan điểm phổ quát. Điều này sẽ tạo nên một xã hội cân bằng và thúc đẩy sự chung sống hài hòa trong cộng đồng. Xã hội với rất nhiều những bộ phận khác nhau, các giai tầng xã hội khác nhau nhưng lại cần có sự liên kết, hợp tác để cùng phát triển. Vì vậy, ổn định xã hội gắn với sự phối hợp nhịp nhàng của toàn bộ hệ thống xã hội trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam luôn gắn với tinh thần đoàn kết, sự chung tay, góp sức của mọi ngành, mọi cấp. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tạo nên tính ổn định xã hội, đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trước những khó khăn, chính nhờ có sự đồng thuận của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã làm nên những kỳ tích có ý nghĩa thời đại. Truyền thống dân tộc, lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng là sức mạnh to lớn để dân tộc Việt Nam tiến lên phía trước. Ổn định chính trị, nền tảng để phát triển đất nước, chính là điều mà mỗi người cần nhận thức một cách đầy đủ để có hành động đúng đắn, sáng suốt. Sự ổn định chính trị chỉ được xây dựng vững chắc trên nền tảng lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước.    
Ngày nay, toàn cầu hóa mà trước hết là toàn cầu hoá về kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống xã hội, đến mọi quốc gia, dân tộc. Không quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển được mà tách biệt, cô lập với thế giới. Mở cửa, chủ động gia nhập vào quá trình toàn cầu hoá chính là điều kiện thuận lợi để kết hợp và phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phát triển. Nhận thức sâu sắc tính tất yếu đó, Đảng ta luôn coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp là một trong những bài học kinh nghiệm lớn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội XI, một lần nữa, bài học kinh nghiệm này được nhấn mạnh: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế... phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”(1).
Sự ổn định chính trị - xã hội vừa là tiền đề, vừa là kết quả của những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế của Việt Nam và là điều kiện thuận lợi cho phát triển quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng ta, là nội dung trọng tâm của hội nhập quốc tế và là một bộ phận quan trọng, xuyên suốt của công cuộc đổi mới. Trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, các chủ trương cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế được nêu tại các kỳ Đại hội Đảng với quyết tâm đẩy mạnh hội nhập kinh tế để tăng trưởng và phát triển.
Trong những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có bước phát triển mới cả về chiều rộng và chiều sâu thông qua việc ký kết, thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, bao gồm những thỏa thuận không chỉ về tự do hóa thương mại và đầu tư mà còn gồm cả các cam kết về lao động, công đoàn, sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp nhà nước và nhiều vấn đề về chính trị, văn hoá, xã hội rất phức tạp và nhạy cảm khác. Việc Cộng đồng Kinh tế ASEAN chính thức hình thành vào cuối năm 2015, triển khai thực hiện Hiệp định Thương mại tự do với Hàn Quốc, với Liên minh Kinh tế Á - Âu, đặc biệt là việc ký kết và chuẩn bị phê chuẩn Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương và Hiệp định thương mại tự do với EU đã và sẽ mở ra nhiều thời cơ, thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức mới, không chỉ về kinh tế mà còn cả về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, văn hóa, xã hội.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra triển vọng mới cho nền kinh tế Việt Nam, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế trên nhiều ngành, nhiều lĩnh vực với các quốc gia trong khu vực và thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Quá trình này cũng tác động mạnh đến sự tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường trong các lĩnh vực: công nghiệp, thương mại, các ngành dịch vụ...; thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều thành phần phù hợp, theo đó tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao; thúc đẩy thương mại, tăng thu hút đầu tư nước ngoài và mở rộng quan hệ hợp tác phát triển.
Trong mối quan hệ biện chứng này, hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ có mặt thống nhất, đồng thời cũng có mặt mâu thuẫn nhau. Hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ kinh tế là mối quan hệ lớn “xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”(2). Hội nhập quốc tế tạo nguồn lực và môi trường để tăng tiềm lực cho nền kinh tế độc lập tự chủ. Hơn nữa, hội nhập quốc tế là cách thức thực hiện độc lập tự chủ tốt nhất trong điều kiện toàn cầu hóa. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người lao động. Các ngành có tốc độ tăng việc làm cao cũng là những ngành mở cửa nhanh và có sự đầu tư hợp tác lớn hơn hoặc những ngành áp dụng công nghệ mới để cạnh tranh, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng như công nghệ chế tạo, xây dựng, tài chính ngân hàng, khoa học công nghệ; tác động tích cực tới tiền lương và thu nhập của mọi tầng lớp cư dân, tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời với quá  trình đó, chúng ta cũng đón đầu tiếp thu được các thành tựu của khoa học - công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, kỹ thuật,... áp dụng vào nền sản xuất xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động. Bên cạnh đó,  hội nhập sâu rộng cũng đặt ra yêu cầu về hoàn thiện thể chế trong nước trên góc độ: pháp luật và tổ chức bộ máy, cùng với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.  Điều này tạo hiệu ứng tích cực thúc đẩy đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường toàn diện, hoàn thiện môi trường kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế nước ta trong dài hạn, tạo ra môi trường kinh doanh năng động và ngày càng bình đẳng, minh bạch, hướng tới sự thích ứng, phù hợp với chuẩn mực và luật pháp quốc tế. Đặc biệt, quá trình này là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam có thể vươn ra thế giới, liên doanh, liên kết, hợp tác thương mại, tham gia chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất khu vực, chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn. Đứng trước những vấn đề đó, từ năm 2010 đến nay, chúng ta đã chuyển sang giai đoạn chủ động đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do với nhiều nước trong khu vực và thế giới, tạo điều kiện quan trọng cho cải cách kinh tế trong nước và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp, nâng cao lợi thế cạnh tranh của hàng hóa. Hơn thế nữa, kết quả hội nhập kinh tế to lớn đó còn giúp Việt Nam thực hiện chiến lược cơ cấu lại thị trường xuất khẩu theo hướng cân bằng hơn, thúc đẩy cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm. 
Tuy nhiên, quá trình hội nhập cũng có những khó khăn, thách thức như: hội nhập với các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ đe dọa đến sự tồn tại của một số doanh nghiệp trong nước, ảnh hưởng tới chính trị, văn hoá của một quốc gia. Thách thức lớn nhất hiện nay là nước ta vẫn là một nước đang phát triển, trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân ít và thiếu tính chuyên nghiệp, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại, ngoại giao chưa hoàn chỉnh... Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh ở trong nước và thị trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn. Nếu không có biện pháp khắc phục, vượt qua những khó khăn này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sức cạnh tranh của nền kinh tế và gây nên những bất ổn về chính trị. Về mặt xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra thách thức không nhỏ đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bản chất lợi ích của toàn cầu hoá được phân phối một cách không đồng đều, những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng lên và có thể dẫn tới những bất ổn về chính trị. Vấn đề gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế trở thành nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách của nền kinh tế hội nhập ở nước ta hiện nay. Hội nhập quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa, sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình chính chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính trị trong nước.
Trên lĩnh vực văn hóa, hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các giá trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các giá trị văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc. Trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của Nhà nước...
Trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định song phương, đa phương thế hệ mới. Trong khi đó, Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng kinh tế ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn rất nhiều so với giai đoạn trước.  Do vậy, trong giai đoạn mới đòi hỏi chúng ta phải chủ động và tích cực hơn nữa trong việc tận dụng các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, vuợt qua các khó khăn thách thức, giảm thiểu các tác động tiêu cực của quá trình hội nhập.
Quán triệt chủ trương của Đại hội XIIvề đẩy mạnh hội nhập quốc tế và Nghị quyết số 06-NQ/TWvề thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là một nội dung trọng tâm trong các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, với mục tiêu thúc đẩy và tăng cường hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển bền vững; đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy chuyển dịch và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh; tích cực tham gia sâu và rộng vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Trong phát triển kinh tế và thương mại, cần chú trọng việc đổi mới công nghệ và bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ nước ta trên thị trường quốc tế. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng, trong đó “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” là chủ trương định hướng cơ bản, lâu dài cho những năm tiếp theo trong quá trình hội nhập quốc tế, góp phần quan trọng vào mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị - xã hội là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, đất nước đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo nền móng cho việc xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét