Thứ Tư, 2 tháng 10, 2019

Để Đảng luôn xứng đáng với vai trò tiền phong

ĐẢNG PHẢI ĐƯỢC XÂY DỰNG THEO NGUYÊN TẮC MÁC XÍT
Hồ Chí Minh từng nói, Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức thống nhất của những người con ưu tú của giai cấp và dân tộc, luôn vì lợi ích cảu Tổ quốc và nhân dân mà phụng sự, song Đảng cũng là một thực thể trong xã hội, cũng là những con người với tất cả điểm ưu và nhược, nên không phải lúc nào và bao giờ cũng giữ đúng và giữ được vai trò tiền phong, gương mẫu. Hơn nữa, trong tiến trình vận động và phát triển, một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn và quy tụ được quần chúng, song không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ngợi ca, nếu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì thế, Người luôn chú trọng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ và sức chiến đấu của Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc xây dựng một chính Đảng Mácxit chân chính; đồng thời, coi đó là quy luật tất yếu, là sự vận động và phát triển của Đảng trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, để Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành và giữ vững vị trí là Đảng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh: 1) Đảng chỉ có thể là một tổ chức chắc chắn, vững mạnh, luôn là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc; chỉ giành và giữ vững vai trò độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam khi “chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, mỗi đảng viên đều phải nghiên cứu… Tư tưởng của Đảng là tư tưởng của giai cấp công nhân, nó đấu tranh cho lợi ích của toàn dân. Vì vậy, trong Đảng không thể có những tư tưởng, lập trường và tác phong trái với tư tưởng, lập trường và tác phong của giai cấp công nhân…Đảng có kỷ luật rất nghiêm khắc, tất cả đảng viên đều phải tuân theo. Tư tưởng, chính trị và tổ chức của Đảng đều phải thống nhất. Trong Đảng không thể có những phần tử lạc hậu và đầu cơ”[4]; đồng thời, thường xuyên, liên tục tự đổi mới và chỉnh đốn. 2) Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng chỉ có thể hoàn thành trọng trách vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân khi “kiên quyết phục tùng sự lãnh đạo tập trung của Đảng. Trong Đảng không thể có những phần tử hèn nhát lung lay”[5]; đồng thời, nỗ lực “toàn tâm toàn lực phụng sự lợi ích của nhân dân, phải làm gương mẫu trong mọi công tác”[6]. Đó là trách nhiệm kép, vừa vinh dự vừa khó khăn, mà muốn xứng đáng, Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc xây dựng một Đảng Mácxít.
Một là, trong bất cứ thời điểm nào, Đảng cũng phải “tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”[7]. Dân chủ và tập trung phải luôn đi đôi với nhau, có mối quan hệ khăng khít với nhau và đó là hai vế của một nguyên tắc. Đây là nguyên tắc rường cột, quan trọng nhất để xây dựng Đảng, nhằm phát huy quyền làm chủ của đảng viên, tạo nên sức mạnh tổng hợp của tổ chức, bảo đảm cho quá trình thực hiện dân chủ được đúng hướng; đảm bảo cho kỷ luật của Đảng được thực thi nghiêm túc; và khi đó, kỷ luật chính là phương tiện để bảo vệ dân chủ, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi thành viên trong tổ chức. Vì thế, Người dặn trong Di chúc, “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi”[8] để không chỉ phát huy quyền làm chủ của đảng viên trong tất cả các hoạt động của Đảng, để mọi đảng viên được bày tỏ ý kiến của mình mà còn góp phần phòng, chống các biểu hiện chuyên quyền, độc đoán, hách dịch, chụp mũ, trù dập và những biểu hiện dân chủ quá trớn, những hiện tượng vì “sợ” mất dân chủ mà theo đuôi quần chúng trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn.

Hai là, Đảng luôn phải thực thi nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Theo Hồ Chí Minh, “ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất giản đơn, chân lý của nó rất rõ rệt. Tục ngữ có câu: “Khôn bầy hơn khôn độc” là ý nghĩ đó?”[9], vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng không thể xem xét và giải quyết tốt tất cả mọi mặt của một vấn đề. Đồng thời, “nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong”[10]. Hai vế của nguyên tắc này phải luôn đi đôi với nhau, nhằm khắc phục những biểu hiện độc đoán, chuyên quyền của người đứng đầu và cả những biểu hiện dựa dẫm, ỷ lại tập thể, không quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm khi cần quyết định những vấn đề quan trọng của những cán bộ thiếu bản lĩnh, thiếu năng lực lãnh đạo,v.v..
Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận trong hệ thống chính trị nhưng là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân, cho nên “sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”[11]. Trên tinh thần tuyệt đối không thỏa hiệp với những xu hướng bè phái, coi sự chia rẽ là tội ác lớn nhất đối với Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đoàn kết là là một truyền thống quý báu và “đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”[12]. Bởi “đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”, được coi là nguyên tắc cơ bản trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là bảo đảm đầu tiên và thường xuyên cho sự vững mạnh và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng; tạo nên sức mạnh thống nhất trong ý chí và hành động của Đảng, nên Hồ Chí Minh căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[13]. Theo đó, mọi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối, chủ trương và những nguyên tắc sinh hoạt Đảng; được thể hiện trong nhận thức và hành động, trong mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, nhất quán giữa lời nói và việc làm; coi đó là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là, một Đảng cách mạng chân chính, muốn xứng đáng với vị thế tiền phong, thì phải “thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”[14]. Tự phê bình và phê bình là cuộc đấu tranh giữa giữa điều tốt và điều xấu, giữa cái đúng và cái sai trong bản thân mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng, để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm và tiến bộ, để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, “cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”[15], nên khi tiến hành phải kiên quyết, ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt và phải được thực hiện trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là thang thuốc hay nhất, cần phải được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc trên tinh thần “các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người, mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”[16], chứ không chờ khi có việc mới tiến hành, có khuyết điểm mới phạt... Thực hiện đúng và tốt nguyên tắc quan trọng này một cách dân chủ, công khai, bình đẳng trong sinh hoạt Đảng theo phương châm: cấp trên và cán bộ lãnh đạo phải tự phê bình nghiêm túc, phải chân thành tiếp thu ý kiến phê bình của đồng chí mình và cấp dưới; đồng thời, phải động viên cấp dưới và quần chúng phê bình tổ chức đảng và đảng viên chân thành, triệt để sẽ góp phần phát huy vai trò, khả năng sáng tạo, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Năm là, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”[17]. Luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết, sự thống nhất lợi ích giữa Đảng với nhân dân chính là ở vị thế: Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của dân. Cho nên, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là một yêu cầu tất yếu, là nhu cầu tự thân của Đảng và một nguyên tắc để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, để nhân nguồn sức mạnh nội lực của Đảng. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên - những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành phải luôn xứng đáng là “công bộc” của nhân dân trên tinh thần: mỗi người trong mọi mặt công tác phải luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân; việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ, sẵn sàng học hỏi nhân dân và “sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự nhân dân”[18], để nhân dân tin tưởng, yêu mến và gắn bó.
Sáu là, không chỉ khẳng định vai trò, ý nghĩa quyết định của đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng, là cơ sở nền tảng của một đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong tư tưởng của Người, đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng; thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân,v.v.. Do đó, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư để Đảng thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[19], để mỗi người rèn mình, phòng và chống những thói hư tật xấu trong mình, xứng đáng với vai trò tiền phong.
TIẾP TỤC LÀM THEO NHỮNG CHỈ DẪN CỦA HỒ CHÍ MINH
Không chỉ chú trọng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng và cán bộ, đảng viên của Đảng hoàn thành nhiệm vụ được Tổ quốc và nhân dân giao phó, Hồ Chí Minh còn là tấm gương đạo đức của người cộng sản mẫu mực, luôn thống nhất giữa nói và làm. Luôn tận trung với nước, tận hiếu với dân, “cuộc đời Hồ Chí Minh thực sự là một tấm gương đạo đức và nhân cách thanh cao của người chiến sĩ cách mạng, hết lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân, mà “gia đình của Người là Nhân dân, là Đảng và Tổ quốc. Bởi lẽ đó, tất thảy điều gì Hồ Chí Minh dạy và làm, thì mọi người đều ngưỡng mộ và làm theo không chút đắn đo”[20]. Hồ Chí Minh và di sản tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, ý nghĩ, tầm nhìn chiến lược và những quyết sách, hành động của Người không chỉ thuộc về hiện tại mà còn thuộc về tương lai.
Quán triệt những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong Di chúc, nhất là thực hiện và coi xây dựng Đảng là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ (2016-2020) theo tinh thần Đại hội XII của Đảng: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”[21], trong gần 90 năm qua, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới và hội nhập, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được xác định là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân; là nhiệm vụ của tất cả các tổ chức của đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên. Đó không chỉ là nhiệm vụ trọng yếu ở Trung ương, là công việc của đội ngũ cán bộ, đảng viên lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mà đó là trách nhiệm của tất cả các cấp ủy Đảng, cả hệ thống chính trị và của toàn thể nhân dân.
Trong mọi thời điểm, nhất là ở vào những thời khắc có tính bước ngoặt, công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh, được tổng kết qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và được triển khai sâu rộng theo các Nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng Đảng: Nghị quyết trung ương 6 (lần 2) khóa VIII “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”,v.v.. Thông qua quá trình tự đổi mới và chỉnh đốn đó, Đảng được củng cố, bảo vệ và phát triển, đáp ứng yêu cầu và tình hình nhiệm vụ cách mạng đặt ra; đồng thời, lãnh đạo nhân dân thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ chính trị, giữ vững ổn định chính trị quốc gia; phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước; hoàn thiện các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, an sinh xã hội; kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị,v.v.. với những bước đi và phương pháp thích hợp. Trong tiến trình đó, Đảng đã khẳng định được vị thế là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, xã hội và đó chính là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trong đó, có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, “công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm… Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu… Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái…Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”[22]… Bộ phận “mọt dân” đó đã làm mất uy tín, danh dự của Đảng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên; làm mục ruỗng bộ máy Đảng, Nhà nước từ bên trong, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng và các cơ quan công quyền. Nghiêm trọng là, “những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”[23]
 Vì thế, để tăng cường công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng; để những trăn trở, tâm nguyện của Hồ Chí Minh trong Di chúc được thực hiện sinh động trong thực tiễn, trong thời gian tới, cấp ủy các cấp cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp, các ban, ngành chức năng và của mỗi cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức[24]. Trong đó, tăng cường và quyết liệt gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, với các quy định: về những điều đảng viên không được làm, về nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là Quy định 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương. Coi đó là giải pháp đột phá, là điều kiện tiên quyết để làm trong sạch Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, phòng và chống nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Thứ hai, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đấu tranh bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới cho cán bộ, đảng viên, những cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành. Kiên định thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; đồng thời, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xây dựng cơ chế phòng ngừa sự tha hóa quyền lực, ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm”. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, Điều lệ Đảng gắn với phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu, gắn với khắc phục tình trạng dân chủ, tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát hình thức, nể nang, ngại va chạm,v.v.. để kịp thời phát hiện và ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, củng cố và tăng cường đoàn kết nội bộ.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đổi mới và làm phong phú các chuyên trang, chuyên mục, các giải thưởng báo chí, các tác phẩm văn học nghệ thuật liên quan đến công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đến thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” từ Trung ương xuống đến địa bàn cơ sở. Lựa chọn, xây dựng và nhân rộng các gương điển hình trong cán bộ, đảng viên, trong nhân dân về học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nhân những hạt giống đỏ trong vườn hoa người tốt, việc tốt để tạo sức lan tỏa, lôi cuốn từ những tấm gương người thực việc thực giản dị trong cuộc sống đời thường mà ý nghĩa nhân văn lớn lao. Đồng thời, chủ động, kiên quyết và linh hoạt đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Thứ tư, mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, phòng, chống và đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân; khắc phục biểu hiện suy thoái “không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao”[25]. Đặc biệt, phát huy sự gương mẫu, thống nhất giữa nói và làm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu trên mọi lĩnh vực, nhất là trong đấu tranh phòng và chống tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ, không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao… Đồng thời, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những con sâu mọt tham ô, tham nhũng, v.v.. gây thất thoát tiền bạc và tài sản của nhân dân.
Thứ năm, phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong giám sát cán bộ, đảng viên, trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” không chỉ là nằm trong nghị quyết, là khẩu hiệu mà trở thành hiện thực sinh động trong thực tiễn. Theo đó, mỗi tổ chức cơ sở đảng và cán bộ, đảng viên tăng cường hướng về cơ sở, khắc phục tình trạng quan liêu, không sâu sát cơ sở, thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của quần chúng nhân dân. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp không những phải tăng cường kiểm tra, đôn đốc, nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị, địa bàn cơ sở, lắng nghe ý kiến đóng góp của quần chúng để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ mà còn cần phát huy tốt vai trò của các tổ chức quần chúng, tạo điều kiện để nhân dân và các tổ chức quần chúng thực hiện tốt hơn quyền dân chủ của mình trong cuộc sống, tích cực tham gia xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thực tế, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Xây dựng và chỉnh đốn lại Đảng là yêu cầu khách quan, tất yếu, là công việc nội tại, thường xuyên của Đảng cầm quyền, để “làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”[26]./.
TS. Văn Thị Thanh Mai
 Ban Tuyên giáo Trung ương
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét