Thứ Năm, 26 tháng 9, 2019

Phòng, chống "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" cần có lực lượng rộng rãi

Qua theo dõi, chúng tôi nhận thấy, hiện nay có một số bạn đọc chưa hiểu rõ về lực lượng sẽ tham gia vào việc phòng, chống chiến lược "diễn biến hòa bình" nói chung; phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nói riêng. Sau khi tìm hiểu, chúng tôi xin cung cấp một số thông tin tới bạn đọc.

Trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ta về phòng, chống chiến lược "diễn biến hòa bình"; phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đều xác định, lực lượng tham gia nhiệm vụ trên ở nước ta hiện nay gồm: Một là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; hai là hệ thống các nhà trường trong cả nước; ba là các cơ quan, viện nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn; bốn là hệ thống các cơ quan báo chí của Trung ương, của các địa phương, các cấp, các ngành.
Trong đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội các cấp trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ xây dựng các nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch hoạt động, đấu tranh trong hệ thống tổ chức của mình. Đồng thời trực tiếp tuyên truyền, giáo dục cho các thành viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân hiểu rõ về bản chất của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tác hại của nó đối với xã hội và sự nghiệp cách mạng Việt Nam, tính cấp bách và ý nghĩa chính trị-xã hội to lớn của việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”...
Hệ thống nhà trường ở nước ta là lực lượng đặc biệt quan trọng trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trước hết đối với thế hệ trẻ của đất nước. Thực tế cho thấy hiện nay, các hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nảy sinh ngay từ thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên. Không ít những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các tiêu cực và tệ nạn xã hội đã thâm nhập trực tiếp vào các nhà trường, vì vậy, các nhà trường phải vừa trang bị tri thức, giáo dục hình thành phẩm chất, nhân cách của con người Việt Nam mới, vừa kết hợp ngăn chặn các nguồn gốc, nguy cơ, tác nhân dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong học sinh, sinh viên.
Các cơ quan, viện nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn là lực lượng trực tiếp nghiên cứu các công trình khoa học các cấp, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa" nhằm cung cấp những luận cứ khoa học giúp Đảng xác định những chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh hiệu quả; đồng thời tổ chức các cuộc hội thảo lý luận và thực tiễn, biên soạn những chuyên đề chuyên sâu, sách chuyên khảo, tham khảo cho các chủ thể, các tổ chức, các lực lượng trong triển khai phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta. 
Với ưu thế mạnh mẽ của mình, các cơ quan thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình có tiềm lực to lớn trong đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì vậy bản thân các cán bộ, phóng viên, biên tập viên của các cơ quan thông tấn, báo chí cần phát huy vai trò, thế mạnh của mình trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thông qua các tác phẩm báo chí về chủ đề này. Các cơ quan báo chí cần huy động các nhà nghiên cứu, đội ngũ chuyên gia, nhà giáo, báo cáo viên, tuyên truyền viên... để tạo lực lượng rộng rãi, chuyên sâu cùng đấu tranh trực diện trên các phương tiện thông tin đại chúng.
TRẦN THÔN

Không thể xuyên tạc, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa của dân tộc ta

Lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ 20 cho thấy, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là một thành tựu vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà còn mở ra một thời đại mới cho dân tộc ta-thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chế độ xã hội do nhân dân làm chủ.

Chế độ xã hội và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam) đã kế thừa truyền thống lịch sử của dân tộc, đồng thời còn kế thừa, phát triển những tư tưởng tiến bộ của cách mạng dân chủ tư sản. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc trong “Tuyên ngôn độc lập” của Hoa Kỳ năm 1776 và “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp năm 1789. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển những tư tưởng tiến bộ đó thành tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng chế độ xã hội dân chủ, cộng hòa theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" năm 1945.
Đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu có ý nghĩa thời đại. Đó là thắng lợi của kháng chiến chống thực dân, đế quốc bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; vượt qua cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống của chủ nghĩa xã hội (CNXH) những năm 1985-1991, tiến hành công cuộc đổi mới (từ năm 1986) thắng lợi.
Không thể xuyên tạc, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa của dân tộc ta
Ảnh minh họa. TTXVN.

Thế nhưng, lợi dụng internet, mạng xã hội, có kẻ đã tung ra thông tin thất thiệt, xuyên tạc, bôi nhọ CNXH và chế độ xã hội XHCN nói chung, chế độ xã hội và Nhà nước ta nói riêng. Trên BBC gần đây có kẻ viết rằng: “Gần như ở nơi nào mà CNXH đã được thử nghiệm, chúng cũng gây ra đau khổ, tham nhũng và mục nát”. Có người cho rằng trên thế giới, học thuyết Mác-Lênin đã lỗi thời; rằng “Việt Nam nên bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin” vì lý luận đó “đã cản trở con đường tiến lên văn minh hiện đại trong hòa bình của Việt Nam”. Có người thì “kiến nghị” Đảng nên bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, chuyển sang “tư tưởng dân tộc, dân chủ”. 
Vậy quan điểm cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam cần từ bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ con đường XHCN sai lầm ở đâu? Vì sao Việt Nam khẳng định: Con đường phát triển của dân tộc ta chỉ có thể là con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo?
1- Kinh nghiệm lịch sử thế kỷ 20 đã chỉ ra rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước và phát triển đất nước-hội nhập quốc tế duy nhất đúng đắn của nhân dân Việt Nam.
Còn nhớ trong thế kỷ 19 và 20, lực lượng chính trị cực hữu ở các quốc gia phát triển đương thời, trong đó có Pháp, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã đến Việt Nam dưới khẩu hiệu “khai hóa”, nhưng thực chất đó là những cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo. Khi đánh bại lực lượng phong kiến Việt Nam, thực dân Pháp áp đặt chế độ thuộc địa, đồng thời duy trì chế độ phong kiến, đẳng cấp, bóc lột nhân dân Việt Nam đến tận xương tận tủy.
Nạn đói khủng khiếp năm 1945 là một ví dụ. Chỉ tính từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc Bộ (với “đỉnh điểm” là tỉnh Thái Bình) nạn đói đã làm chết hơn 2 triệu người, chiếm gần 10% dân số Việt Nam khi đó. Theo con số ghi chép từ công trình nghiên cứu “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam-những chứng tích lịch sử” của GS Văn Tạo và GS Furuta Moto (Nhật Bản): “Nhiều làng xã chết từ 50% đến 80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết không còn ai. Làng Sơn Thọ, xã Thái Thượng, huyện Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) có hơn 1.000 người thì chết đói mất 956 người”[1].
Nối tiếp cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh mang tính hủy diệt đối với dân tộc Việt Nam; đồng thời sử dụng chủ nghĩa thực dân mới: Xây dựng chính quyền tay sai nhằm thống trị và chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Còn nhớ ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai của chúng đã gây ra bao nhiêu vụ thảm sát. Không kể chế độ khắc nghiệt, tù nhân phải ăn gạo mục, cá ươn, muối hạt, nước mắm có dòi… nhiều tù nhân cốt cán phải nằm xà lim, chuồng cọp, thường xuyên bị tra tấn dã man… 
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các dân tộc trên thế giới, bao gồm cả nhân dân tiến bộ Pháp, Mỹ… đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế hơn 30 năm qua (từ năm 1986 đến nay) do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đem lại những thành tựu có ý nghĩa thời đại. Từ một nước nghèo, trải qua hơn 30 năm chiến tranh, bị cấm vận, cho đến nay, Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung bình, trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bình đẳng với nhiều nước lớn, trong đó có Nga, Trung Quốc (đối tác chiến lược toàn diện) và Hoa Kỳ (đối tác toàn diện).
Trong suốt chiều dài lịch sử, từ thập niên 30 của thế kỷ 20 đến nay chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Tư tưởng xuyên suốt và nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn liền độc lập dân tộc với chế độ xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng năm 1930 xác định: Tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[2].
Cương lĩnh năm 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Đại hội lần thứ XII (năm 2016) của Đảng đã xác định mục tiêu của dân tộc Việt Nam là: Xây dựng một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện… có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
2- Để tiến đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, con đường duy nhất của dân tộc Việt Nam chỉ có thể là con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính tất yếu của con đường XHCN của dân tộc Việt Nam trước hết bắt nguồn từ lịch sử, từ sự lựa chọn của nhân dân. Ngày nay, trên thế giới có nhiều mô hình xã hội với nhiều chế độ xã hội khác nhau. Mỗi quốc gia, dân tộc lựa chọn mô hình nào đó đều dựa trên những điều kiện lịch sử của dân tộc mình, đồng thời tùy theo thể chế xã hội và do đảng chính trị cầm quyền lãnh đạo thực hiện. Không ít nhà nước trên thế giới ngày nay là nhà nước “cộng hòa”, “cộng hòa dân chủ nhân dân"; “cộng hòa nhân dân”; “cộng hòa-tổng thống"; "cộng hòa đại nghị"; nhà nước tôn giáo (Vatican). Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và luật pháp các quốc gia đều tôn trọng sự lựa chọn chế độ xã hội và nhà nước của các dân tộc.
Một số người lợi dụng internet, mạng xã hội tán phát quan điểm xuyên tạc, phủ nhận xã hội XHCN nói chung, phủ nhận con đường XHCN của dân tộc Việt Nam là vô căn cứ. Họ chỉ dựa vào tên gọi, hoặc tư tưởng chính trị theo quan điểm giáo điều hoặc những mặt tiêu cực nào đó của xã hội để đánh giá nước này là “văn minh”, nước kia là “lạc hậu”. Đó chỉ là những thủ đoạn chính trị cổ hủ, vô căn cứ.
Tư tưởng về cách mạng xã hội tiến đến chủ nghĩa cộng sản, trong đó “sự tự do phát triển của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản) do Mác và Ăngghen sáng tạo trước khi có cách mạng XHCN. Lênin và Đảng Cộng sản Nga (sau đó là Đảng Cộng sản Liên Xô) đã vận dụng, phát triển lý luận đó, lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười đưa đến sự ra đời nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới, đồng thời mở ra hệ thống XHCN, phá thế độc quyền của tư bản chủ nghĩa (TBCN) thế giới. Cho dù thế giới ngày nay đã có những thay đổi lớn lao nhưng không thể phủ nhận được những sự kiện lịch sử mang tính thời đại này.
Ở Việt Nam, đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết này phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng. Cuộc Cách mạng Tháng Tám không phải là một cuộc cách mạng vô sản như ở nước Nga (năm 1917), mà là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo Chủ nghĩa Lênin, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói. Nhà nước mới, sau cách mạng cũng không phải theo mô hình nhà nước Xô-viết, mà là nhà nước “dân chủ, cộng hòa” do nhân dân làm chủ, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hướng tới xã hội XHCN.
Chế độ xã hội ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay đã trải qua hai mô hình xã hội với những thể chế và chính sách khác nhau. Mô hình trước đổi mới (1976-1986) là “Chế độ làm chủ tập thể XHCN”[3]. Về chính trị, đó là chế độ xã hội dựa trên nhà nước, thực sự của dân, do dân, vì dân… dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về kinh tế, đó là chủ trương “xóa bỏ chế độ sở hữu TBCN… xác lập chế độ sở hữu XHCN dưới hai hình thức: Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể” bằng những phương pháp và bước đi thích hợp.
Mô hình xã hội XHCN trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay) là sự phát triển sáng tạo chế độ xã hội XHCN, đồng thời khắc phục những sai lầm nhận thức về CNXH. Mô hình đó, về chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Về kinh tế, đó là kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Về quan hệ quốc tế, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách rộng mở, không phân biệt chế độ xã hội, hệ tư tưởng.
Cần phải khẳng định, Việt Nam đi theo con đường XHCN là phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày nay. Chế độ dân chủ XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân tộc Việt Nam ngày nay là sự kế thừa và phát triển lịch sử dân tộc. Về mặt lý luận, chế độ Việt Nam nằm trong hình thái quá độ từ CNTB lên CNXH, mở đầu từ sự ra đời của Nhà nước Xô-viết. Sự ra đời của hệ thống XHCN và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc (từ thập niên 1960) đã xác nhận tính chất đúng đắn của lý luận đó. Còn nhớ, sau Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến những năm 70 của thế kỷ 20, hàng trăm quốc gia, dân tộc, nơi các đảng chính trị theo chủ nghĩa yêu nước, Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có nhiều đảng cộng sản đã lãnh đạo nhân dân lao động đứng lên lật đổ chế độ thuộc địa, giành được độc lập dân tộc, trong đó có nhân dân Việt Nam. Do nhiều nhân tố, trong đó có tác động của hệ thống XHCN, ở các nước TBCN đã hình thành phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, tạo ra sự biến đổi những cơ chế, chính sách ít nhiều dung hòa lợi ích giữa giới chủ với người lao động. Điển hình cho phong trào này là kết quả đạt được giữa giới chủ với các tổ chức công đoàn ở các nước Bắc Âu, do các đảng dân chủ XHCN (còn gọi là các đảng xã hội dân chủ) lãnh đạo.
Thể chế Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay khác với thể chế “Nhà nước chuyên chính vô sản” (trong thời kỳ trước đổi mới), đó là Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hiến pháp năm 2013 thể hiện toàn diện những bước phát triển về tư tưởng chính trị và pháp lý của Nhà nước Việt Nam.
Về chế độ xã hội, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. (Điều 2).
Về vai trò và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều 4 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Về quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày nay là rộng mở, không phân biệt chế độ xã hội, hệ tư tưởng, dựa trên các nguyên tắc-đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết; tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Tóm lại, đó là đường lối đối ngoại: “Độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa…; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế… giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng).
Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên đã dành cả một chương để quy định về quyền con người trên tất cả các nhóm quyền, từ quyền dân sự, chính trị đến các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Những quy định này hoàn toàn tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc.
Đảng và Nhà nước Việt Nam không phủ nhận những mặt tiêu cực đang tồn tại trong xã hội. Đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo, tình trạng suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Điều này được Đảng Cộng sản Việt Nam công khai hóa, đồng thời đang triển khai cuộc đấu tranh chống tham nhũng một cách có bài bản và quyết liệt. Các nghị quyết Đại hội XI, XII, nhất là Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII cho thấy rõ quyết tâm của toàn Đảng và toàn dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh này như thế nào. Trong những năm gần đây, không ít cán bộ có chức, có quyền ở cả cấp cao, lực lượng vũ trang đã bị xử lý kỷ luật Đảng và xử lý hình sự.
Tại Hội nghị Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, chiều 27-4-2018 ở Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” và “làm đến cùng”[4]. Gần đây, ngày 1-8-2018, trong buổi làm việc với Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn lưu ý: Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, lãng phí, phòng, chống tiêu cực, chúng ta thường nói nhiều đến công tác cán bộ… “nhưng điều cốt yếu là gì? Đó là sự kiên định đi lên CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Lịch sử thế kỷ 20 cho thấy: Không có lực lượng chính trị nào ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có Cương lĩnh xác định mục tiêu là giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; không có lực lượng chính trị nào có lý luận cách mạng khoa học sáng tạo, có đường lối, chính sách phù hợp với xu thế của thời đại; có hệ thống tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện và sẵn sàng hy sinh như Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi vậy có thể nói, sự phát triển của dân tộc Việt Nam chỉ có thể là đi theo con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
---------------------------------
[1] - Nạn đói năm Ất Dậu, 1944-1945 - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
[2] - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.
[3] - Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trị, Đại hội IV, NXB ST, 1997, HN, tr. 53,52.
[4] - “Tổng Bí thư khẳng định: Không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong chống tham nhũng”.Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, 27-4-2018 19:58 GMT+7
PHAN THANH

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2019

Di huấn Hồ Chí Minh về "cần kiệm liêm chính, chí công vô tư"

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện cùng bà con nông dân xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên ngày 20-9-1954

TỪ TÁC PHẨM “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” ĐẾN LỜI DẶN "CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ" TRONG DI CHÚC
Nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, nhất là trước tác Người để lại, có thể thấy rằng: Người không chỉ nhấn mạnh “trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất quan trọng nhất; chi phối các phẩm chất đạo đức khác của người cách mạng mà còn khẳng định “cần, kiệm, liêm, chính” là yêu cầu nhất thiết phải có, là “tứ đức” cơ bản làm nên “gốc” của người cách mạng. “Tứ đức” vốn là những khái niệm đạo đức truyền thống phương Đông được Người chọn lọc và tiếp biến với những yêu cầu, nội dung mới, thể hiện trong 23 yêu cầu về “Tư cách một người cách mệnh” (Đường Cách mệnh, 1927), (Đời sống mới, Sửa đổi lối làm việc, 1947); đề cập trong nhiều tác phẩm sau đó và cuối cùng là trong bản Di chúc lịch sử, 1969…
Trong tác phẩm Đời sống mới (3/1947), Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải thực hành “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” nhưng đến tác phẩm “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”, Người đã coi “tứ đức” là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc và luận giải “tứ đức” trong tổng thể của trời, đất, con người và mối quan hệ của mùa - trời; của phương - đất; của đức - người. Giản dị mà khúc chiết, Người khẳng định:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người”[3].
Theo đó, lần lượt trong 4 bài báo đã nêu, Hồ Chí Minh chỉ rõ nội hàm của từng đức trong “tứ đức”, cụ thể như sau:
CẦN “là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”; “cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được”, bởi “Cần chẳng những có nghĩa hẹp như: Tay siêng làm thì hàm siêng nhai” mà còn “có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần”. Hiểu đúng về Cần nghĩa là luôn chăm chỉ, cố gắng không phải một sớm một chiều mà thường xuyên và liên tục. Hiểu sâu sa hơn thì Cần cũng có nghĩa là làm để nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc lâu dài, để đạt được mục đích đề ra, bởi: “Nếu mỗi người, mỗi ngày làm thêm một tiếng đồng hồ thì: Mỗi tháng sẽ thêm 300 triệu giờ. Mỗi năm thêm lên 3.600 triệu giờ… Cứ tính một giờ làm đáng giá một đồng bạc, thì mỗi năm nước ta đã có thêm được 3.600 triệu đồng. Đưa số tiền đó thêm vào kháng chiến, thì kháng chiến ắt mau thắng lợi, thêm vào kiến quốc, thì kiến quốc ắt mau thành công”[4].
KIỆM “là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” và không phải là bủn xỉn. Trong đó, Cần phải đi đôi với Kiệm “như hai chân của con người”; vì “KIỆM mà không CẦN thì không tăng thêm, không phát triển”. Tiết kiệm về vật chất phải đi đôi với tiết kiệm về thời giờ, bởi “của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được”[5]. Vì thế, thời giờ cần tiết kiệm và đó cũng là Cần; “tiết kiệm thời giờ của mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người”, cũng giống như “khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm[6]. Đặc biệt, muốn tiết kiệm tốt thì phải khéo tổ chức, vì “không biết tổ chức thì không biết tiết kiệm” và phải “kiên quyết không xa xỉ”. Từ đó, “một mặt, chúng ta thi đua KIỆM. Một mặt, chúng ta thi đua CẦN” thì cộng lại là “nhân dân sẽ ấm no, kháng chiến sẽ mau thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành công”…
LIÊM “là trong sạch, không tham lam” và “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM”[7]. Chữ LIÊM phải đi đôi với chữ KIỆM, cũng như chữ KIỆM phải đi đôi với chữ CẦN, vì “có KIỆM mới LIÊM được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”. Tham lam sẽ dẫn đến BẤT LIÊM, cho nên, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân”. Cũng theo Hồ Chí Minh, “trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”1) và “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì "quan" dù không liêm cũng phải hoá ra LIÊM. Vì vậy dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”[8]. Vì, “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”, cho nên “cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”[9]
CHÍNH “nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc của CHÍNH. Nhưng một cây cần phải có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng còn phải CHÍNH mới là người hoàn toàn”[10]. Tiếp đó, Hồ Chí Minh viết tiếp “trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: người THIỆN và người ÁC. Trong xã hội, có trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc CHÍNH và việc TÀ. Làm việc Chính là người Thiện. Làm việc Tà là người Ác. Siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), CHÍNH là THIỆN. Lười biếng, xa xỉ, tham lam là tà, là ác”[11]
Để là CHÍNH, mỗi người, ĐỐI VỚI MÌNH, phải “chớ tự kiêu, tự đại; luôn luôn cầu tiến bộ; luôn luôn tự kiểm điêmmr, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”[12], vì “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”. ĐỐI VỚI NGƯỜI, “phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác - Ái”[13]. ĐỐI VỚI VIỆC, “phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”, “đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình), dù là việc nhỏ, thì một năm ta làm được 365 việc. Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to. Cả 20 triệu đồng bào đều làm như vậy, thì nước ta nhất định mau giàu, dân ta nhất định nhiều hạnh phúc. Ai chẳng muốn cho tự mình thành một người tốt”[14].
Bản thảo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh TL
 
Những điều Hồ Chí Minh viết về “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” hàm chứa yêu cầu và mong mỏi của Người về sự cần thiết phải rèn luyện đạo đức cách mạng nói chung, xây dựng và rèn “tứ đức” nói riêng đối với mỗi người cán bộ, đảng viên. Theo Người, uy tín của Đảng cầm quyền, của mỗi cán bộ, đảng viên và lòng tin của nhân dân gắn liền với sự tu dưỡng và gương mẫu thực hành đạo đức cách mạng, cho nên, nếu mỗi cán bộ, đảng viên chỉ biết nói lời hay, ý đẹp nhưng không gương mẫu thực hành “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” thì cũng không thể hấp dẫn, quy tụ, lãnh đạo được quần chúng nhân dân. Vì thế, thực hành “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” không chỉ là yêu cầu cần thiết trong tu dưỡng đạo đức của mỗi người cách mạng mà còn là biện pháp quan trọng để xây dựng Đảng về đạo đức. Theo Hồ Chí Minh, việc thực hành “tứ đức” sẽ không chỉ giúp người cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa, tự rèn mình mà còn tạo ra sức mạnh mềm và sức hấp dẫn của một tổ chức, của cả một dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh và tiến bộ”.
Không chỉ làm rõ nội hàm của CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, sau này, trong nhiều tác phẩm khác, Hồ Chí Minh còn khẳng định rõ “tứ đức” đối lập với tham ô, lãng phí, quan liêu, với ý nghĩa: cần, kiệm, liêm, chính như là ánh sáng của đạo đức con người; còn tham ô, lãng phí, quan liêu như là bóng tối của sự suy thoái. CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH có mối quan hệ chặt chẽ với “chí công vô tư” và người cán bộ, đảng viên trong nhận thức và hành động hướng lòng mình đến “chí công vô tư”, tận tâm vì dân, vì nước thì nhất định sẽ thực hiện được CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH. Hơn nữa, thực tế cho thấy rằng, một bộ phận cán bộ, đảng viên - những người “có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”[15], cho nên người cách mạng bên cạnh yêu cầu phải có "tú đức", còn rất cần phải xây dựng đức tính “chí công vô tư”, để mình trở thành người lãnh đạo - người đầy tớ trung thành của nhân dân luôn phụng sự và liêm chính.
Tháng 10/1947, khi viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng: Phải đòi hỏi mỗi đảng viên, trước hết là mỗi cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình. Đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Kiên quyết chống bệnh tự mãn tự túc, tự tư tự lợi, kiêu ngạo, ba hoa. Phải thực hành khẩu hiệu: “Chí công vô tư; cần, kiệm, liêm, chính!". Vì thế, càng không phải ngẫu nhiên, Hồ Chí Minh lại ghi ở trang đầu quyển sổ vàng của trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”[16]. Đặc biệt, điều mong mỏi, tâm huyết về yêu cầu cần phải có những đức tính quý báu này cũng được Người dặn lại trong Di chúc và coi đó là một trong những nội dung của công tác xây dựng và chỉnh đốn lại Đảng, để mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, để "xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[17].
THỰC HIỆN “CẦN KIÊM LIÊM CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ” GẮN VỚI HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Hồ Chí Minh là người cộng sản mẫu mực, luôn thống nhất giữa nói và làm. Người không chỉ nêu ra và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng và rèn luyện những phẩm chất “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”, hướng lòng mình đến “chí công vô tư” để phụng sự Tổ quốc và nhân dân mà Người còn chính là hiện thân của những phẩm chất cao quý đó. Với Người, từ những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước đến khi trở thành Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng thì cũng vẫn là một Hồ Chí Minh luôn nỗ lực làm việc và chi tiêu thật tiết kiệm; luôn thích các món ăn dân gian như dưa cà, mắm tép, cá kho và thường tránh các nghi thức đón tiếp linh đình, lãng phí; thường mặc bộ kaki, đi dép lốp cao su, dùng túi vải, mũ cát khi đi thăm đồng chí, đồng bào, kể cả khi đi công tác ngoài nước; thường chọn thăm bếp ăn của công nhân, nơi ở của người dân nghèo; không thích ở nhà của Phủ toàn quyền Đông Dương hay dinh thự cao cấp, đủ tiện nghi mà chọn căn phòng vốn là nơi ở của người thợ điện và sau đó là ngôi nhà sàn kiểu đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc thường sinh sống…
Hồ Chí Minh luôn “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” từ trong suy nghĩ đến hành động; từ cuộc sống đời thường đến vị thế một nguyên thủ quốc gia và cho đến lúc đi xa. Lựa chọn cuộc sống cần kiệm, giản dị, chan chứa tình yêu thiên nhiên, không màng danh vọng, không ham của cải, chẳng ưa sự xa hoa và những nghi thức sang trọng, Hồ Chí Minh từng nói, người ta ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhưng điều quan trọng là phải thiết thực và phù hợp, đúng thời, đúng hoàn cảnh. Người ăn mặc đều giản dị và tiết kiệm và đó là lối sống của Người…và Người đã từng nói với một đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng chân tình rằng: “Này chú! Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”[18]
Chủ tịch Hồ Chí Minh cuốc đất trồng rau trong vườn Phủ Chủ tịch. Ảnh TL
 
Để góp phần chống nạn đói năm 1945, Người đã kêu gọi đồng bào cả nước nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, nhường cơm, sẻ áo: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo. Như vậy, thì những người nghèo sẽ có bữa rau, bữa cháo để chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói”[19]. Không chỉ gương mẫu nhịn ăn, để dành gạo cho vào hũ gạo cứu đói, Người còn bán chiếc áo lụa đồng bào tặng lấy tiền mua áo ấm tặng cho chiến sỹ trong mùa đông giá rét và đem số tiền tiết kiệm ít ỏi vốn là tiền nhuận bút của mình để mua nước ngọt tặng cho các chiến sỹ trực phòng không trong những ngày hè nóng bức năm 1967. Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam hiện lưu giữ một hiện vật đặc biệt (đăng ký 4875-Gi-1026) - Đó chính là thư chuyển số tiền 16.000 đồng của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng cục Chính trị để mua thêm nước uống cho bộ đội phòng không trực chiến bên mâm pháo, làm nhiệm vụ bảo vệ bầu trời của Tổ quốc. Món quà của Người tuy nhỏ nhưng đã kịp thời động viên tinh thần, tiếp thêm sức mạnh cho các chiến sỹ phòng không, giúp họ vượt qua mùa hè nóng nực và lập nhiều chiến công xuất sắc, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ… Tấm lòng, tình yêu thương bao la của Hồ Chí Minh với đồng bào, chiến sỹ không chỉ thể hiện sâu sắc những giá trị đạo đức cách mạng mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng và tu dưỡng mà còn thể hiện đậm nét cuộc sống “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” của Người.
Những điều Người nói, những việc Người làm và tấm gương đạo đức cách mạng “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” của Người không chỉ được khẳng định trong thực tiễn mà còn mang ý nghĩa, giá trị đạo đức cao đẹp của thời đại, dù thế giới đã đi qua bao thăng trầm, thay đổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những gì Người nói, những việc Người đã làm với tâm hồn thanh cao là biểu hiện sự dung hợp hài hòa những phẩm chất tuyệt vời của một vị lãnh tụ của nhân dân, thuộc về nhân dân trong thời đại mới. Và trong thực tế, rất hiếm người “đạt tới sự thống nhất hài hoà giữa chủ nghĩa nhân đạo và tầm cao chính trị, giữa đức tính giản dị, khiêm tốn và sự hiểu biết sâu rộng, giữa tình cảm ấm áp và nghị lực phi thường đến mức tuyệt vời như Bác Hồ. Được gặp Người, quả thật là một điều sung sướng, vinh dự, một diễm phúc trong đời”[20].
Vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn lớn lao, thực hành “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh là yêu cầu tất yếu mà mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng và thường xuyên rèn luyện để xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đồng thời, đó cũng là một trong những tiêu chuẩn để phân loại, đánh giá quá trình phấn đấu của mỗi người trong công tác và sinh hoạt đời thường. Với ý nghĩa đó, việc triển khai Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (Chỉ thị 05) trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân gắn với rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” những năm qua đã góp phần tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ngày 12/11/2013, Tổng thống Liên Bang Nga V. Putin đã đến Hà Nội thăm chính thức Việt Nam. Ông đã đến thăm nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh và viết trong sổ lưu niệm:
"Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ hòa bình tiến bộ và phồn vinh. Nhưng giá trị tư tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh vẫn là ngọn đuốc, là biểu tượng cho một nền văn hóa tương lai… Và vì thế lịch sử mãi mãi nhắc tới Người như một bậc thánh nhân”.
Thực tế cho thấy, tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị, trong từng lĩnh vực công tác, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã gắn việc rèn “tứ đức” với nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII); đặc biệt là tự soi mình và nhận diện 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Từ trong quá trình rèn luyện đạo đức cách mạng gắn với thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mỗi cán bộ, đảng viên tại địa phương, cơ quan, đơn vị đã xuất hiện nhiều tấm gương tập thể và cá nhân điển hình, được biểu dương trên các phương tiện truyền thông... Mỗi con người, mỗi tập thể mẫu mực về rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” đã góp phần xây dựng những giá trị đạo đức tốt đẹp trong xã hội, thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước, lao động sáng tạo, tạo động lực đưa sự nghiệp đổi mới vượt qua mọi khó khăn thách thức, tiếp tục giành được những thành tựu mới.
Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" sa vào quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bè phái, chạy chức chạy quyền, độc đoán, vi phạm kỷ luật,... Trong số đó, có cả cán bộ lãnh đạo cấp cao vì thiếu rèn luyện đạo đức cách mạng, không thực hành "cần kiệm liêm chính, chí công vô tư" mà phạm tội dẫn đến bị khai trừ khỏi Đảng, truy tố trước pháp luật. Sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của những "con sâu mọt" ấy đã làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, làm suy yếu tổ chức và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng...
Vì vậy, tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05 theo chương trình toàn khóa và theo chủ đề hằng năm gắn với thực hiện di huấn của Người trong Di chúc về “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết đối với mỗi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân ta; trong đó, cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban, ngành chức năng về vai trò, ý nghĩa của việc thấm nhầm yêu cầu phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng trong cả hệ thống chính trị; đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục ý thức thực hành “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn trong Di chúc. Gắn thực hiện Chỉ thị 05 với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, coi đây là giải pháp đột phá để việc tự soi, tự sửa, tự rèn luyện đạo đức cách mạng nói chung, “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” nói riêng trở thành việc là thường xuyên, liên tục của mỗi cán bộ, đảng viên.
Hai là, tiếp tục thực hiện “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và sinh hoạt thường kỳ của chi bộ; trong đó, có những chuyên đề cụ thể về ““cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” với những nội dung thiết thực, để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể. Thông qua đó, xây dựng tác phong, lề lối làm việc “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH”, tận tụy phụng sự nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tại các cơ quan công quyền phù hợp với đặc điểm, tình hình, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và theo đúng chức năng, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên.
Ba là, nâng cao trách nhiệm và phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng theo nguyên tắc “trên trước, dưới sau”, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” trong công việc lẫn đời tư, tại nơi công tác cũng như địa bàn cư trú. Đồng thời, thực hiện nghiêm kỷ luật Đảng, Điều lệ Đảng, quy định về những điều đảng viên không được làm và các quy định về nêu gương… Thông qua đó, nâng cao tinh thần, ý thức chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước trong mỗi cán bộ, đảng viên và kiên quyết đưa ra khỏi Đảng, miễn nhiệm, thay thế, buộc từ chức và đưa ra khỏi Đảng đối với những cán bộ, đảng viên suy thoái, bất liêm, bất chính, tham ô, tham nhũng,v.v.., đã mất uy tín trong Đảng và trong nhân dân.
Bốn là, phát huy vai trò của nhân dân, dựa vào nhân dân để “sửa chữa cán bộ và tổ chức ta”[21] trong giám sát các cơ quan, tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên. Tạo cơ chế pháp lý để nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên có chức, có quyền các cấp thực hiện Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng, các quy định về nêu gương trong rèn luyện đạo đức cách mạng gắn với yêu cầu phải “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” trong thi hành công vụ, chấp hành chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại cơ quan công tác và địa bàn cư trú mà không sợ bị đe dọa, trả thù, trù úm... Thông qua đó, làm cho việc học tập và làm theo Bác, tự giác rèn luyện “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” trở thành việc làm hằng ngày, tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức cơ sở Đảng, thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng./.
TS. Văn Thị Thanh Mai
Ban Tuyên giáo Trung ương

Không mắc mưu luận điệu cho rằng phòng, chống tham nhũng là để “xoa dịu dư luận”

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng họp chỉ đạo Phiên họp thứ 16 Ban chỉ đạo Trung ương phòng, chống tham nhũng
1. Xưa nay, xã hội không lạ gì những đối tượng ra sức chống phá Đảng và Nhà nước chỉ nhằm một mục tiêu là hướng lái Việt Nam từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng ta. Trong khi Đảng, Nhà nước đang đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng thì luận điệu của những đối tượng này vẫn vậy.

Một giảng viên đại học nghỉ hưu đã trả lời phỏng vấn Đài RFA ngày 29-7 rằng, việc Đảng xử lý kỷ luật một số cán bộ, đảng viên như hiện nay chỉ là bề nổi, nhằm mục đích “xoa dịu dư luận”. Ông này phân tích, các quan chức “coi trời bằng vung” có ở khắp Việt Nam nên việc xử lý của Đảng chỉ như muối bỏ biển và mang tính đấu đá phe nhóm, nhằm chiếm quyền, đoạt ghế.

Ngoài ra, ông ta “dẫn chứng” về biểu hiện “tư bản thân hữu” thông qua việc một số chủ doanh nghiệp vênh vang, đe dọa người tố cáo những biểu hiện vi phạm pháp luật.

Đối tượng này lấy ngay trường hợp lãnh đạo Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại dịch vụ Đất Lành Vũ Anh Cường có hành vi sàm sỡ hành khách nữ trên máy bay làm ví dụ, dù không đưa ra được căn cứ chứng minh người này có mối quan hệ thân thiết với cán bộ nào. Hay nhân việc bị can Trần Bắc Hà (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị, nguyên Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam) tử vong trong khi bị tạm giam, các đối tượng xấu lại tung tin và đặt điều vu khống là do phe cánh đấu đá nên phải “giết người diệt khẩu”...

Một nhân vật tự xưng là “nhà báo tự do” đang sống ở Khánh Hòa thì khẳng định với RFA rằng, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo đất nước thì tham nhũng, xấu xa, hư hỏng về đạo đức của “quan cách mạng” vẫn còn dài dài và việc làm của Đảng ta thời gian qua cũng chỉ như “dã tràng xe cát Biển Đông”…

Có thể nói, tất cả những bình luận, quan điểm mà các phần tử chống đối, bất mãn chính trị đưa ra khi trả lời báo, đài nước ngoài, viết trên mạng xã hội… đều thiếu chứng lý thuyết phục, mang tính quy chụp, cố tình không thấy hết những nỗ lực của toàn Đảng trong công cuộc phòng, chống “giặc nội xâm”.

Trong các thông tin đưa ra, các đối tượng này luôn lộng ngôn: Việt Nam muốn tiến lên, nhân dân muốn có cuộc sống giàu có thì phải mở rộng dân chủ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và tam quyền phân lập...

Thủ đoạn đó cũng chẳng có gì mới và đã được chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII): Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược "Diễn biến hòa bình", lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình; đồng thời, cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn…

2. Thực tế cho thấy, việc phòng, chống tham nhũng không chỉ có ở Việt Nam mà diễn ra ở tất cả các nước trên thế giới, bởi tham nhũng là “con đẻ quái thai” của bất kỳ chế độ và nhà nước nào. Ngay như Mỹ và các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU), nơi những “nhà dân chủ”, “nhà báo tự do” tự phong bất mãn trong nước rất sủng ái cũng xảy ra rất nhiều vụ tham nhũng.

Gần đây nhất, các cơ quan chức trách Mỹ đã điều tra, phát hiện Glenn Francis, chủ Công ty Glenn Defense Marine Asia hối lộ lực lượng hải quân nước này với số tiền lớn trong thời gian dài. Trong đó, cựu chỉ huy Troy Amundson, người nắm quyền kiểm soát các cuộc tập trận của hải quân Mỹ từ tháng 5-2005 tới tháng 5-2013 đã thừa nhận việc nhận tiền hối lộ và phải đối diện với mức án 5 năm tù.

Hay theo báo cáo về tham nhũng của đảng Xanh châu Âu vào cuối năm 2018, các quốc gia thành viên EU mất tới 900 tỷ euro (khoảng 1.000 tỷ USD) mỗi năm vì tham nhũng. Trước đó, vào năm 2014, EU xác định tham nhũng gây thiệt hại khoảng 120 tỷ euro mỗi năm…

Như đã biết, trong công tác phòng, chống tham nhũng, Đảng ta đã có chủ trương xử lý thông qua nhiều nghị quyết, chỉ thị và quy định. Quốc hội đã ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng và đã sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn cùng nhiều văn bản liên quan khác.

Từ sau Đại hội XII tới nay, với chủ trương xử lý tham nhũng “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; cuộc chiến phòng, chống tham nhũng đã thu được kết quả tốt, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Theo thống kê, từ đầu nhiệm kỳ khóa XII tới nay, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 490 tổ chức Đảng và 35.000 đảng viên vi phạm, trong đó có gần 1.300 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái. Ngoài ra, có hơn 70 cán bộ, đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bị thi hành kỷ luật Đảng và xử lý hình sự. Không ít những người này bị kỷ luật do có liên quan đến tham nhũng và con số này chắc chắn chưa phải là kết quả cuối cùng…

Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về phòng, chống tham nhũng (tháng 6-2018), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo trung ương về Phòng, chống tham nhũng khẳng định: Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, kể cả những vụ việc tồn tại từ nhiều năm trước đã được phát hiện, xử lý nghiêm minh, công khai, đúng pháp luật, rất nghiêm khắc nhưng cũng rất nhân văn; có lý, có tình, thể hiện rõ quan điểm “Nói đi đôi với làm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền”... Việc nguyên Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh và nhiều nguyên lãnh đạo cấp cao khác bị kỷ luật cho thấy quyết tâm và tính hiệu quả trong công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bản chất của tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận, là tham lam, là trộm cướp”. Còn Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng thì khẳng định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả những người là lãnh đạo, quản lý thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, tham nhũng”.

Như vậy, mấu chốt của tham nhũng là do chủ nghĩa cá nhân phát tác và hệ thống pháp luật kiểm soát quyền lực chưa tốt. Đó là hành vi phản đạo đức, đi ngược lại bản chất của chế độ chính trị chứ không phải do thể chế chính trị sinh ra. Muốn có một bộ máy nhà nước tinh, gọn, mạnh như nghị quyết Đảng gần đây đã xác định thì việc quyết liệt phòng, chống tham nhũng là đương nhiên, không phải bàn cãi.

Ở Việt Nam hiện nay, phòng, chống tham nhũng là cuộc chiến chống “giặc nội xâm” thực sự chứ không phải là chiêu trò “xoa dịu dư luận” hoặc đấu đá phe nhóm quyền lực như những đối tượng bị “ngáo” bởi tư tưởng dân chủ phương Tây vẫn huyễn hoặc, lừa bịp dư luận.

Rõ ràng, đây là những âm mưu thâm độc, nguy hiểm với phương thức, thủ đoạn hết sức tinh vi và mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần phải đề cao cảnh giác, nhận diện, kiên quyết đấu tranh./.
Đức Tâm/Hà Nội mới

Những âm mưu chống phá trước thềm Đại hội Đảng lần thứ XIII

(Hình minh họa)
Có thể nói, chủ nghĩa đế quốc là lực lượng đi đầu thúc đẩy chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam rất quyết liệt, nhưng không ra mặt trực diện, mà hoạt động ngấm ngầm thông qua lôi kéo, liên kết, hợp tác để từng bước “thẩm thấu, chuyển hóa” (hợp tác để chuyển hóa), sử dụng thế lực phản động ngoài nước câu kết với nhóm phản động và những kẻ cơ hội trong nước để chống phá cách mạng Việt Nam. Ngoài ra, một số đảng viên thoái hóa, biến chất, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cũng hùa theo các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động, hòng làm cho tình hình an ninh chính trị ở Việt Nam trở nên phức tạp.
Hiện nay, họ đang sử dụng thủ đoạn là tập trung tác động vào nhận thức, tâm lý, tình cảm, niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN; xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bôi đen hình ảnh, thành tựu của đất nước, hình ảnh lãnh tụ.
Họ thường lợi dụng những hạn chế, thiếu sót của ta để “chính trị hóa” các vấn đề về kinh tế-xã hội, từ đó tác động, làm thay đổi nhận thức về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Họ ra sức kêu gọi thúc đẩy “dân chủ đa nguyên”, thay đổi thể chế chính trị, đổi tên Đảng, tên nước, sửa cương lĩnh, hiến pháp, “phi chính trị hóa” quân đội, công an; thực hiện “tam quyền phân lập” ở Việt Nam. Thúc đẩy, kích động phong trào “bất tuân dân sự”, tuần hành, biểu tình, bạo động, khiếu kiện, gây điểm nóng về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; mặc cả, đối kháng chính quyền, coi đây là sự “tập dượt” cho “cách mạng màu”.
Thời gian qua, họ luôn cho rằng, các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, an sinh xã hội, đất đai, cơ sở thờ tự, môi trường, giao thông, giáo dục, Biển Đông... là những vấn đề nhạy cảm có thể lợi dụng để chống phá.
Hiện nay, họ triệt để lợi dụng công tác phòng, chống tham nhũng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, các sự kiện chính trị, các vấn đề phức tạp, nhạy cảm về an ninh chính trị để phân hóa, chia rẽ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, hòng làm cho đảng viên và nhân dân hiểu sai lệch, hoài nghi, thiếu niềm tin vào bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng.
Họ cũng tìm cách thẩm thấu, cấy sâu vào trong xã hội Việt Nam tư tưởng chia rẽ đường lối đối ngoại của Đảng, nhất là trong quan hệ với các nước lớn, nước láng giềng, khu vực.
Về phương tiện, họ triệt để lợi dụng công cụ truyền thông, báo chí, không gian mạng và coi đây là ưu thế, mũi nhọn, phương tiện, chất xúc tác để chuyển hóa, gây rối loạn nhận thức tư tưởng, thúc đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, dẫn dắt phong trào “bất tuân dân sự” chống Đảng, chống Nhà nước XHCN...
Chính vì vậy, đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước việc chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng là nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách, là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, của hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên.
Để công tác đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có hiệu quả, các cấp ủy đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau đây:
Một là, thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu, ban chỉ đạo, cơ quan chức năng các cấp, nhất là vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; quan tâm lãnh đạo toàn diện lý luận chính trị, tư tưởng, văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí; tích cực đấu tranh trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội; quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, nắm, dự báo, xử lý kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh. Tức là phải phát huy vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong xây dựng lực lượng đấu tranh nòng cốt chuyên sâu, nhất là cơ quan nghiên cứu, cơ quan báo chí, các học viện, nhà trường, đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên.
Duy trì, tổ chức thực hiện tốt việc đấu tranh trên các phương tiện thông tin đại chúng, lấy các cơ quan báo chí làm nòng cốt để vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, đồng thời định hướng dư luận xã hội. Đồng thời, thiết lập các trang, nhóm, tài khoản mạng xã hội nhằm tiếp cận, chia sẻ thông tin tham gia đấu tranh phản bác trên internet, mạng xã hội với các hình thức, phương pháp linh hoạt; chú trọng chia sẻ thông tin tích cực, bài viết chuyên sâu của các cơ quan báo chí, học viện, nhà trường tạo “dòng chủ lưu” thực hiện phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”, “lấy thông tin tích cực đẩy lùi thông tin tiêu cực”.
Hai là, thường xuyên bám sát các vấn đề, sự kiện, cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo thế chủ động trong mặt trận đấu tranh trên internet, mạng xã hội. Với phương châm chỉ đạo công tác tư tưởng phải đi trước, đón đầu; không để “khoảng trống” thông tin để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá, Cơ quan Thường trực Ban chỉ đạo 35 các cấp cần quan tâm biên soạn các tài liệu chuyên khảo, tham khảo, xây dựng ngân hàng comment làm tài liệu phục vụ tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng đấu tranh cho các lực lượng.
Thực hiện tốt việc cung cấp thông tin cho cán bộ theo định kỳ, gặp mặt các đồng chí cán bộ nghỉ hưu, nghỉ công tác hằng năm; chủ động gặp các cán bộ có quan điểm khác với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo sự đồng thuận về nhận thức và hành động.
Ba là, thường xuyên tổ chức các cuộc tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm giữa các lực lượng chức năng, lực lượng nòng cốt chuyên sâu, các hội nghị rút kinh nghiệm và các cuộc “diễn tập” đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Với phương châm vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, cấp ủy, tổ chức đảng cơ quan, đơn vị cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức các cuộc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, hội nghị rút kinh nghiệm theo hướng thiết thực, hiệu quả, “cầm tay, chỉ việc”.
Chú trọng tổ chức một số cuộc “diễn tập” đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội làm cơ sở cho các lực lượng hoàn thiện, phát triển kỹ năng đấu tranh.
Lực lượng đấu tranh nòng cốt chuyên sâu phải thường xuyên được trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ lý luận, bổ sung kinh nghiệm thực tiễn. Các thông tin đấu tranh phải trung thực, khách quan, vì lợi ích lâu dài của dân tộc, của đất nước, mang tính Đảng, tính khoa học, tính xây dựng cao.
Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị điện tử phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội. 
Ở tầm vĩ mô: Nhà nước cần xây dựng hệ thống thông tin phong phú, hiện đại, có khả năng tiếp cận, xử lý và khuếch tán vào dòng thông tin truyền thống quốc tế với lượng thông tin đủ lớn, đủ mạnh để tạo sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.
Ở tầm vi mô: Cần tăng cường và đổi mới cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm phát huy tính hiệu quả của các cơ quan báo chí truyền thông, hòa nhập vào trình độ kỹ thuật thông tin thế giới. Các bộ, ngành chức năng, các cơ quan, đơn vị liên quan cần nghiên cứu, tổ chức triển khai hệ thống giải pháp kỹ thuật phù hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế để phục vụ việc đấu tranh ngăn chặn, xử lý các nguồn tán phát thông tin tiêu cực, xấu độc, sai sự thật, nhằm tạo môi trường thông tin trung thực, khách quan.
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, của cả hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên cần được triển khai đồng bộ, có hệ thống các chủ trương, giải pháp.
Thực hiện tốt những vấn đề cơ bản trên sẽ góp phần ngăn chặn hữu hiệu, giảm tác hại từ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động trên internet, mạng xã hội và các phương tiện truyền thông, nhất là khi Đảng ta chuẩn bị tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII./.
Đại tá, TS. Đỗ Duy Ánh (qdnd.vn)