Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4/1975, Đại tướng Lê Đức Anh là người chỉ huy tiến công trên hướng Tây - Tây Nam, một trong năm cánh quân tiến về Sài Gòn để làm nên trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Bộ Chỉ huy chiến dịch điều động 5 quân đoàn (Quân đoàn 1, 2, 3, 4) và Đoàn 232 đủ các binh chủng hợp thành, tạo thành năm cánh quân theo năm hướng. Hướng Tây – Tây Nam sử dụng Đoàn 232 (đồng chí Lê Đức Anh là Tư lệnh, đồng chí Lê Văn Tưởng là Chính ủy). Bộ Chỉ huy Miền nhận định phải nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ số 4 để quân địch ở Sài Gòn không thể co cụm xuống cố thủ ở Tây Đô (Cần Thơ). Vì vậy, cánh quân phía Tây – Tây Nam có 3 nhiệm vụ: Chia cắt hai lực lượng Sài Gòn và miền Đông với lực lượng ở đồng bằng sông Cửu Long; tấn công Biệt khu Thủ đô và tấn công Tổng nha cảnh sát, sau đó hợp điểm tại Dinh Độc Lập.
17 giờ ngày 26/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Các đơn vị hướng Tây – Tây Nam do Trung tướng Lê Đức Anh chỉ huy đồng loạt tiến công. Đến 3 giờ sáng ngày 27/4, Sư đoàn 5 đã cắt một đoàn từ Bến Lức tới Tân An. Sư đoàn 8 cùng quân dân Tiền Giang đánh cắt lộ 4 từ Mỹ Tho đến bờ sông Tiền. Sư đoàn 3 đánh chiếm khu vực An Ninh – Lộc Giang, tổ chức vượt sông Vàm Cỏ, áp sát địch để đảm bảo Sư đoàn 9 vượt sông Vàm Cỏ Đông vào vị trí tập kết tại Cầu Bông, Mỹ Thạnh, Đức Hòa.
Khi xe tăng, thiết giáp vượt sông thì trời đổ mưa, khu vực huyện Đức Huệ (Long An) nhiều sình lầy khiến đoàn xe không đi được. Nhân dân địa phương liền vác bó cây và dỡ nhà mình ra lót đường cho xe tăng và pháo vượt qua. Trung tướng Lê Đức Anh liền cử một số đồng chí ở lại giúp dân làm lại nhà dù người dân không đòi hỏi. Sau này, đồng chí Nguyễn Minh Châu, Tham mưu trưởng Miền đã cho bộ đội làm lại hết nhà cho dân.
Ngày 29/4, Sư đoàn 3 tiến đánh và làm chủ thị xã Hậu Nghĩa, sau đó đánh chiếm Chi khu Đức Hòa và căn cứ Trà Cú, tạo điều kiện cho Sư đoàn 9 đưa toàn bộ lực lượng vào Mỹ Hạnh, sau đó chọc thẳng vào nội đô. Sáng 30/4, các cánh quân cùng nhân dân nổi dậy, đồng loạt tấn công đánh chiếm các mục tiêu đã định như Biệt khu Thủ đô, Bộ Tư lệnh cảnh sát quốc gia, Tổng nha cảnh sát, cảnh sát đô thành, các quận Tân Bình, Bình Chánh, hợp điểm tại Dinh Độc Lập đúng theo kế hoạch. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Cũng trên mặt trận hướng Tây – Tây Nam, trên đường hành tiến, các đơn vị thuộc Đoàn 232 đã đánh chiếm các tỉnh lỵ Long An, Kiến Tường. Bằng chiến thuật hiệu quả, Đoàn 232 đã thực hiện thành công việc chia cắt hoàn toàn Sài Gòn với các tỉnh miền Tây, khiến toàn bộ Quân đoàn 4 của quân đội Sài Gòn vốn đang còn nguyên vẹn với 3 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn không quân và rất nhiều lực lượng tăng, thiết giáp, hải quân… không thể nào ứng cứu được Sài Gòn.
Kỷ niệm trước ngày giải phóng
Cuộc đời Đại tướng Lê Đức Anh đã đi suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng đất nước. Biết bao kỷ niệm sâu sắc tưởng chừng không thể quên. Chiến tranh là thử thách cao nhất, nghiệt ngã nhất đối với con người. Trong cuốn hồi ký của mình, ông kể lại lần chết hụt ở giờ phút chiến tranh sắp kết thúc: “Sở chỉ huy cánh quân hướng Tây – Tây Nam nằm ngay bên bờ sông Vàm Cỏ thuộc huyện Đức Hòa. Suốt ngày đêm, tôi vẫn trụ trong cái chòi nhỏ sát mép sông; sáng hôm đó, tôi vào ăn cơm, chỗ ăn là nhà họp của địa phương, làm nửa chìm, nửa nổi, Chính ủy Hai Tưởng (Lê Văn Tưởng) đặt vị trí ở đây; vừa ăn xong, tự nhiên anh Tưởng bảo tôi: “Anh hãy nán lại, nằm trên võng của tôi mà nghỉ, nghỉ mươi phút rồi hẵng ra đó!” Tôi nghe anh. Vừa ngả lưng thì ở ngoài chòi của tôi một quả bom từ máy bay địch ném trúng, cái chòi bay mất, cậu lái xe hy sinh, cậu Thái bảo vệ bị thương. Nếu hôm đó ăn xong tôi ra liền thì nhất định “cái chuyện thường” đã xảy ra với tôi. Và hôm nay chẳng còn ngồi để mà viết ra những dòng chữ này! Chiến tranh nó có chừa ai, cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên nhiều khi không thể mang “tính quy luật” ra mà giải thích!”.
Sau này nhớ lại chuyện cũ, ông nói vui với anh em: “Bom đạn đầy trời thế này, chết là chuyện thường, còn sống thì mới kỳ!”.
Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng cả cuộc đời chinh chiến, có lẽ bom đạn cũng biết “tránh” ông. Ông là một trong số ít người đã trải qua các cuộc chiến tranh và xung đột từ khi Việt Nam giành độc lập năm 1945 cho đến năm 1989. Ông từng tham gia 9 năm kháng chiến chống Pháp, đi chiến trường miền Nam 11 năm (1964 - 1975), chỉ huy chiến trường Campuchia 7 năm (1979 - 1986), rồi tham gia ổn định tình hình biên giới phía Bắc (1986 - 1989).
Trên cương vị Chủ tịch Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn đầu đất nước tiến hành công cuộc đổi mới (1992 – 1997), đồng chí Lê Đức Anh đã cùng tập thể lãnh đạo của Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng trong công tác đối nội, đối ngoại, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quốc phòng - an ninh được giữ vững và củng cố…
Trong suốt quá trình công tác, Đại tướng Lê Đức Anh đã nhận được nhiều Huân Huy chương cao quý như Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất và nhiều Huân chương cao quý của nhà nước Liên Xô, Cu Ba, Campuchia và Lào.
Nhận xét về ông, Cố Tổng Bí thư Đỗ Mười đã viết trong hồi ký: “Đồng chí Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đối với tôi, đồng chí Lê Đức Anh là người đồng chí, người bạn thân thiết, gần gũi trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét