Như một người cha chăm sóc đứa con yêu, Bác ngày đêm chăm lo trau dồi bản chất cách mạng, bản chất giai cấp công nhân cho Quân đội, Bác coi đó là yếu tố cơ bản nhất để tạo nên sức mạnh vô địch của Quân đội nhân dân.
Người nói “Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất, mà Đảng vô sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân”.
Bản chất ấy được thể hiện trên các lĩnh vực chính trị-tư tưởng, tổ chức xây dựng và hoạt động chiến đấu của Quân đội nhân dân. Nói cách khác, toàn bộ đời sống chiến đấu của Quân đội nhân dân đều quán triệt lập trường, quan điểm, ý chí của giai cấp công nhân.
Trước hết điều đó thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội nhân dân là độc lập dân tộc, ruộng đất cho dân cày, thống nhất nước nhà và đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là sự ham muốn tột bậc của Người.
Quân đội nhân dân chiến đấu cho mục tiêu, lý tưởng đó nhằm giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc ta thoát khỏi ách nô lệ, áp bức bóc lột của chế độ phong kiến và của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
“Độc lập dân tộc,” “ruộng đất dân cày,” tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu cũng là khát vọng lâu đời, cháy bỏng của cả dân tộc.
Chiến đấu cho mục tiêu đó Quân đội Việt Nam luôn luôn được sự đùm bọc yêu thương, hết lòng ủng hộ giúp đỡ của nhân dân và nhân dân cũng coi quân đội thực sự là con em của mình.
Quân đội Việt Nam chiến đấu cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là chiến đấu cho lợi ích của chính bản thân và gia đình mình. Mỗi cán bộ, chiến sỹ nhận rõ quyền lợi, hạnh phúc của mình đều gắn bó với sự nghiệp cách mạng, nên chiến đấu với tinh thần tự nguyện, quyết xả thân hy sinh cho thắng lợi của cách mạng, không khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào của dân tộc, của giai cấp.
Nhờ vậy, Quân đội Việt Nam đã không ngừng tạo ra sức mạnh tinh thần, sức mạnh vật chất để hoàn thành vẻ vang mọi nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu qua các thời kỳ cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân giao phó.
Đúng như lời Người nói “Quân đội ta là quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng. Mới ra đời với gậy tày, súng kíp đã cùng toàn dân đánh Pháp, đánh Nhật đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công. Lên mười tuổi đã cùng toàn dân giành được thắng lợi lớn Điện Biên Phủ, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp được Mỹ giúp sức.
Quân đội ta anh dũng trong kháng chiến và cũng anh dũng trong hòa bình... Quân đội ta cũng đã góp phần tích cực xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa làm tròn nhiệm vụ của một quân đội cách mạng.”
Đây là nhân tố cơ bản đầu tiên quyết định bản chất giai cấp công nhân của quân đội và là nguồn gốc mọi thắng lợi của quân đội Việt Nam.
Bác khẳng định “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một Quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục.”
Trong xây dựng quân đội, Người luôn chăm lo đến việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sỹ. Người nói “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại. Quân đội ta là Quân đội nhân dân. Nhân dân có Đảng lãnh đạo, Đảng có chính cương, chính sách. Đã là Quân đội nhân dân thì phải học chính sách của Đảng.”
“Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy cần phải học thêm... Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”.
Bác rất quan tâm đến xây dựng con người: từ việc giáo dục, học hành đến cái ăn, cái mặc, cái ở của bộ đội, đặc biệt là của các chiến sỹ.
Bác chỉ rõ “Cán bộ không có đội viên, lãnh tụ không có quần chúng thì không làm gì được. Bởi vậy cần phải thương yêu đội viên. Từ tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất, tinh thần của đội viên... Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa có áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt. Thế mới là dân chủ, là đoàn kết, là tất thắng”.
Bác đặc biệt quan tâm xây dựng tình đoàn kết quân dân. Bác thường dạy quân với dân như cá với nước, toàn dân phải chăm lo xây dựng quân đội, còn quân đội phải hết lòng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ sinh mạng, tài sản của nhân dân, không được động đến một cái kim, một sợi chỉ của nhân dân. Rõ ràng truyền thống tốt đẹp “Phụ tử chí tình”, “Quân, dân một lòng” của Tổ tiên đã được Bác phát triển một cách tốt đẹp.
Những nội dung tư tưởng trên của Bác là phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân hùng mạnh. Quân đội có thể không đông về số lượng, nhưng mạnh ở sự giác ngộ chính trị tư tưởng, thống nhất về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, mạnh ở sự đoàn kết quân dân, đoàn kết nhất trí giữa cán bộ và chiến sĩ, mạnh ở mưu trí dũng cảm trong chiến đấu, ở tính năng động sáng tạo trong sử dụng những vũ khí trang bị kỹ thuật phù hợp với cách đánh Việt Nam, chiến trường Việt Nam.
Sức mạnh của Quân đội Việt Nam bắt nguồn từ sự lãnh đạo giáo dục của Đảng, của Bác Hồ, từ sức mạnh và lòng thương yêu đùm bọc của nhân dân, từ chiều sâu nền văn hóa truyền thống dân tộc và sức mạnh thời đại.
Quân đội Việt Nam thực sự trở thành niềm tin, niềm tự hào của nhân dân, đã được nhân dân tặng cho danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ”. “Bộ đội Cụ Hồ” là hình mẫu rất đẹp về đức hy sinh chiến đấu vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì cuộc sống hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, là nhân cách con người Việt Nam mới.
Thấm nhuần lời Bác dạy, 76 năm qua, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” và suốt 76 năm ấy, luôn “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Nội dung: Theo VietnamPlus
Trình bày: Ngọc Nhi
Báo Bắc Giang
Ảnh 1: Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu Anh hùng, Chiến sỹ thi đua và Dũng sỹ diệt Mỹ của Quân giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc (20-7-1968).
Ảnh 2: Nhân dịp Tết nguyên đán Đinh Mùi (1967), Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn không quân 921-Đoàn Không quân Sao Đỏ.
Ảnh 3: : Bác Hồ tặng Huy hiệu “Chiến sỹ Điện Biên” cho các cá nhân có thành tích xuất sắc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
Ảnh 4: Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm và nói chuyện với cán bộ, chiến sỹ Viện Quân y 7 (Hải Phòng) ngày 30-5-1957.
Ảnh 5: Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và cùng ăn cơm trên tàu với cán bộ, chiến sỹ bộ đội hải quân bảo vệ bờ biển Quảng Ninh (1965)
Ảnh 6: Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu Anh hùng, Chiến sỹ thi đua và Dũng sỹ diệt Mỹ của Quân giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc (20-7-1968).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét