Tại Đại hội XI, Đảng xác định một trong ba nội dung lớn để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới...Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác”. Kiên quyết “loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân”(1).
Hiện nay, như Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đánh giá, bên cạnh đa số cán bộ, đảng viên, công chức có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng, thì vẫn còn “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”(2).
Để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, để có được đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới, cần tập trung nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức nước ta hiện nay.
Một trong những đặc trưng của hoạt động công vụ là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước (gắn với nhà nước hoặc nhân danh nhà nước) do các công chức, viên chức nhà nước tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước và xã hội(3). Do đó, trong nhiều trường hợp, nếu lương tâm không sáng, trách nhiệm không cao sẽ dẫn đến lạm quyền, gây tổn hại cho dân, cho nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”(4). Vì vậy, nâng cao đạo đức công vụ không chỉ là công việc thường xuyên của bản thân đội ngũ công chức mà còn là trách nhiệm của các chủ thể quản lý công chức.
Về bản chất, đạo đức công vụ là đạo đức thực thi công vụ của công chức, bao gồm hệ thống nguyên tắc, chuẩn mực dùng để điều chỉnh mối quan hệ giữa đội ngũ công chức với tổ chức, công dân, thể hiện ở lương tâm và trách nhiệm vì lợi ích chung, ý thức việc cần phải làm và mong muốn được làm vì lợi ích chung đó.
Đạo đức công vụ được xem xét từ hai góc độ: Thứ nhất là góc độ của tồn tại người.Đó là đạo đức của bản thân người công chức. Nói cách khác chủ thể đạo đức công vụ là người công chức. Với tư cách là công dân, người công chức phải mang trong mình những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội mà trong đó họ sống, hoạt động. Thứ hai là góc độ đạo đức nghề nghiệp. Với tư cách là công chức, họ phải tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực quy định cách ứng xử của người công chức trong hoạt động thực thi công vụ mà không bao giờ được vi phạm đạo đức của nghề công chức. Ph.Ăngghen từng viết rằng: “Trong thực tế, mỗi giai cấp và ngay cả mỗi nghề nghiệp đều có đạo đức riêng của mình”(5).
Đạo đức công vụ không chỉ dừng lại ở sự nhận thức mà cần phải được pháp điển hóa trong nền công vụ. Nếu thiếu sự pháp điển hóa này thì những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức cũng chỉ là những lời giáo huấn chung chung, không có sức sống trong thực tế. Bởi lẽ như Ph.Ăngghen từng nói, người ta sẵn sàng vi phạm đạo đức nghề nghiệp, “mỗi khi thấy có thể vi phạm mà không bị trừng phạt”(6). Nếu như sức mạnh của pháp luật là sự cưỡng chế, bắt buộc thì sức mạnh của đạo đức là niềm tin cá nhân, là truyền thống dân tộc, là sức mạnh của dư luận xã hội. Chính vì vậy, nâng cao nhận thức đạo đức, biến nhận thức đạo đức thành hành vi đạo đức, thành thực tiễn đạo đức là việc làm hết sức cần thiết trong đời sống xã hội nói chung và đội ngũ công chức nói riêng.
Do đó, nâng cao đạo đức công vụ là quá trình tác động tích cực, có mục đích của các chủ thể tới đối tượng với nội dung, hình thức và phương pháp thích hợp nhằm làm biến đổi đời sống đạo đức của đội ngũ công chức theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn về mặt nhân cách của họ.
Nâng cao đạo đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức nước ta hiện nay là nâng cao lòng yêu nghề, tinh thần tận tụy với công việc; nâng cao thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; là thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư trong hoạt động công vụ; là nâng cao chủ nghĩa tập thể, tinh thần hợp tác, tôn trọng pháp luật, tôn trọng đồng nghiệp trong thực thi công vụ.
Trong hai thành tố cơ bản cấu thành nhân cách con người nói chung, người công chức nói riênglà phẩm chất vànăng lực, hay nói cách khác nhân cách là sự thống nhất giữa phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn, trong đó phẩm chất đạo đứcđược coi là gốc, nền tảng của nhân cách hay còn gọi là hạt nhân cơ bản của nhân cách con người. Do đó, cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao năng lực thích ứng với xã hội của công chức (năng lực xã hội hóa; năng lực chủ thể hóa; năng lực hành động) v.v. thì nâng cao đạo đức công vụ cho công chức có tầm quan trọng đặc biệt. Điều đó được cắt nghĩa bởi mấy lý do chính sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò, vị trí của đội ngũ công chức trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Nghiên cứu lý luận, khái quát thực tiễn cách mạng nước Nga, V.I. Lênin đã rút ra một kết luận có ý nghĩa phương pháp luận hết sức sâu sắc, rằng: “trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”(7). Trung thành với những chỉ dẫn của V.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam luôn luôn quan niệm “Cán bộ là cái gốc của công việc”(8); “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(9), cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền không tốt hoặc không chạy thì động cơ dù tốt mấy, bộ máy cũng bị tê liệt.
Trong đội ngũ công chức, có một bộ phận không nhỏ là đảng viên, là cán bộ lãnh đạo, quản lý, là người tham gia hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; đồng thời là người đưa các chủ trương, chính sách đó đến với nhân dân; vận động, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, đưa đất nước phát triển không ngừng. Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nướccủa Đảng ta khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”(10).
Là “công bộc” của nhân dân, đội ngũ công chức có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển đất nước; trong việc bảo vệ pháp luật và công lý, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã hội, chống lại các hành vi vi phạm pháp luật, tùy tiện, vô nguyên tắc. Ngay trong Bộ quy tắc ứng xử quốc tế dành cho công chức, Liên Hợp quốc đã đề ra 3 nguyên tắc chung, trong đó nguyên tắc thứ ba quy định: trong thực thi công vụ, người công chức phải chú tâm, công bằng, không thiên vị, đặc biệt trong quan hệ với nhân dân. Công chức không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để đối xử ưu tiên cho một nhóm người hoặc một cá nhân nào, và cũng không được đối xử phân biệt với một nhóm người hoặc một cá nhân khác(11). Ngoài ra, đội ngũ công chức còn là người đóng vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và các tiêu cực khác để làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn.
Thứ hai,xuất phát từ thực trạng đạo đức của đội ngũ công chức nước ta hiện nay. Đánh giá một cách khách quan, đại bộ phận công chức nước ta hiện nay có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; có thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, được nhân dân tin tưởng; thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “anh em viên chức bây giờ cần có bốn đức tính là cần, kiệm, liêm, chính”(12) trong hoạt động công vụ; luôn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể; có lòng yêu nghề, tận tụy với công việc; tôn trọng đồng nghiệp, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh những ưu điểm cần được khẳng định, góp phần quan trọng vào thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiện nay - như đánh giá của Đảng ta tại Đại hội XI - vẫn còn “một bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về năng lực và phẩm chất ... quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi”(13).
Tại cuộc họp thứ nhất Ban chỉ đạo Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ rõ:“Chúng ta hiện đang có 2,8 triệu công chức, nhưng thực sự 2,8 triệu công chức ấy có cống hiến hết mình hay không?... Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”(14). Đây là một thực tế cần được tháo gỡ càng sớm càng tốt để đội ngũ công chức thực sự trở thành “công bộc” của dân, chăm lo phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của mọi người dân.
Thứ ba,xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ mới. Sự nghiệp đổi mới đã thu được những thắng lợi vô cùng to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Bên cạnh những thành tựu to lớn, công cuộc CNH, HĐH còn không ít khó khăn, thách thức, tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia. Trong đó, thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực bao gồm kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển đất nước hiện nay.
Bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường, những tác động tích cực và tiêu cực, thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức, v.v. đan xen hết sức phức tạp, nhiệm vụ chính trị mới lại rất nặng nề, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải đào tạo được một lực lượng lao động có chất lượng cao; xây dựng cho bằng được đội ngũ công chức ngang tầm, toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp cách mạng càng trở nên cấp bách...
C. Mác đã sớm khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng. Sự tổ chức của những phần tử cách mạng thành giai cấp giả định sự tồn tại của tất cả những lực lượng sản xuất có thể nảy sinh ra trong lòng xã hội cũ”(15).
V.I. Lênin chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”(16). Xuất phát từ những luận điểm gốc của các nhà kinh điển mácxít, Đảng ta lựa chọn một trong ba khâu đột phá để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 là “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ”(17).
Để góp phần nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức hiện nay, trước mắt cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất,phát huy hơn nữa vai trò của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới rất coi trọng hệ thống quản lý đạo đức công vụ, trong đó chú trọng khung pháp lývà khung tổ chức(hệ thống tổ chức chuyên trách hay kiêm nhiệm từ trung ương đến địa phương để quản lý về đạo đức công vụ). Mỹ có Cơ quan đạo đức chính phủ , với khoảng 70 nhân viên, trong đó có 15 luật sư, ngân sách hằng năm là 12 triệu USD và công chức hành pháp Hoa Kỳ phải tuân theo 14 nguyên tắc hành vi đạo đức(18). Việt Nam chưa có hệ thống quản lý chuyên biệt này nhưng hệ thống chính trị đã và đang tích cực góp phần tham gia vào việc nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức. Vai trò này của các chủ thể cần được phát huy và có hiệu quả hơn nữa.
Thứ hai,đổi mới công tác đánh giá công chức dựa trên một hệ giá trị chuẩn mực làm tiêu chí, tránh đánh giá một cách hình thức, tùy tiện, cảm tính.
Hiện nay, việc đánh giá cán bộ, công chức của nước ta chủ yếu dựa vào Điều 28 trong Luật cán bộ, công chức. Tuy nhiên, những nội dung này cũng cần được cụ thể hóa để phù hợp với ngạch công chức cũng như ngạch của ngành chuyên môn mà công chức đảm nhiệm.
Cùng với chủ trương“Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”(19), thiết nghĩ chúng ta cần chú ý đến việc hoàn thiện các chuẩn mực giá trị đạo đức cán bộ, công chức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, nhằm cụ thể hóa nguyên tắc đạo đức công vụ. Lấy đó làm hệ quy chiếu để nâng cao hiệu quả hoạt động công vụ của công chức.
Thứ ba,phát huy hơn nữa tính tích cực, chủ động, tinh thần tiên phong, gương mẫu của đội ngũ công chức trong thực thi công vụ. Vận động là một quá trình tự thân, những nhân tố tác động từ bên ngoài để nâng cao đạo đức công vụ cho công chức là hết sức quan trọng. Tuy nhiên nhân tố quyết định quá trình ấy phải là nhân tố bên trong, từ chủ thể đạo đức (đối tượng được nâng cao) chứ không phải là chủ thể nâng cao. Bởi lẽ, đạo đức cách mạng của đội ngũ công chức “không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(20).
Nâng cao đạo đức công vụ cho công chức là công việc thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi sự tham gia tích cực không chỉ của đội ngũ công chức mà còn của các cấp, các ngành cũng như của toàn thể nhân dân. Với sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền cũng như toàn xã hội, đạo đức công vụ của đội ngũ công chức nước ta sẽ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới mà cách mạng đặt ra.
_______________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2015
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.54, 55.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.22.
(3) Xem thêm Học viện Hành chính, Thuật ngữ Hành chính, Hà Nội, 2009, tr.72.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.104.
(5), (6) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập,t.21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.425, 425.
(7) V.Lênin: Toàn tập,t.4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.473.
(8), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.265, 240.
(10) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, 1997, tr.66.
(11) Xem thêm: Đỗ Thị Ngọc Lan: Nghiên cứu so sánh quy định về đạo đức công vụ của một số quốc gia và Việt Nam,Nxb Chính trị quốc gia 2012, tr30.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.158-159.
(13) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tr.94.
(14) http://vietnamnet.vn
(15) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, 2002, tr.257.
(16) V.I.Lênin: Toàn tập, t. 38, Nxb Tiến bộ, 1977, tr.430.
(17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tr.32.
(18) Dẫn theo Đỗ Thị Ngọc Lan: Nghiên cứu so sánh quy định về đạo đức công vụ của một số quốc gia và Việt Nam,Nxb Chính trị quốc gia, 2013, tr.22-23, 32.
(19) Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, http://dangcongsanvietnam.vn
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập,t.11, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.612.
PGS,TS Trần Sỹ Phán
Viện Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét