1-Kết
hợp tính nguyên tắc cứng rắn với biện pháp thực hiện linh hoạt, mềm dẻo
Ngày
31/5/1946, trước lúc lên máy bay sang Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm tay Cụ Huỳnh
Thúc Kháng nói: "Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở
nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết cho. Mong Cụ "Dĩ
bất biến, ứng vạn biến" (lấy cái không đổi đối phó với muôn sự thay
đổi)".
Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Cụ Huỳnh Thúc Kháng, hai vị túc nho có tinh thần nồng nàn
yêu nước đều hiểu sâu sắc rằng: Mục tiêu độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do
và hạnh phúc của nhân dân, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không thay đổi, cho
dù có nhiều khó khăn, gian khổ và phải hy sinh cũng kiên quyết bằng mọi hình
thức đấu tranh chính trị, quân sự, kinh tế và ngoại giao để giữ vững.
Chúng
ta thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ mong cụ Huỳnh Thúc Kháng thực hiện
nguyên tắc dĩ bất biến, ứng vạn biến trong công tác lãnh đạo chính quyền khi
đó, mà Người còn muốn Đảng, cũng như đội ngũ cán bộ, đảng viên biết thực hiện
nguyên tắc dĩ bất biến, ứng vạn biến trong xử thế nói chung, cũng như trong thi
hành mỗi công việc, công vụ lớn trong hoạt động chính trị.
Độc
lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân là mục đích duy
nhất, là ham muốn tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là cái bất biến. Trước
mọi sự đe doạ, dụ dỗ, lung lạc, lay chuyển của kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều
tuyên bố: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do".
Khi thời cơ đến, Người khẳng định: Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải giành cho được tự do, độc lập.
Không
có gì quý hơn độc lập tự do là cái bất biến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc
Việt Nam, đồng thời cũng là chân lý của thời đại. Giữ vững độc lập dân tộc và
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ là nguyên tắc bất di, bất dịch: “Hễ còn một tên xâm
lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi’’. Có
độc lập dân tộc rồi thì từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng là nguyên
lý không thể thay đổi: “Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn,
thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ’’.
Đảng
phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin “làm cốt", có nghĩa là phải biết vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, dùng lập trường, quan điểm và
phương pháp của chủ nghĩa ấy - cái bất biến trong giải quyết nhiều vấn đề lý
luận và thực tế hết sức phức tạp với muôn hình vạn trạng trong thực tiễn cách
mạng nước ta.v.v...
Dĩ
bất biến nhưng phải biết ứng vạn biến, ứng vạn biến mà không xa rời, chệch
hướng, từ bỏ cái bất biến. Để thực hiện được nguyên tắc bất biến, thì phải biết
khôn khéo, linh hoạt sử dụng các biện pháp khác nhau phù hợp với hoàn cảnh
khách quan luôn biến đổi không ngừng. Đó là nguyên tắc chỉ đạo trong phong cách
lãnh đạo, quản lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính cuộc đời hoạt động cách mạng
của Người là một điển hình mẫu mực về xử lý mối quan hệ giữa tính kiên định về
nguyên tắc và tính linh hoạt, mềm dẻo về sách lược và cách thức làm việc trong
những hoàn cảnh khách quan biến đổi khó lường.
Ngày
nay, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người lãnh đạo, quản lý đều cần có bản lĩnh
chính trị vững vàng, không thay đổi trong những vấn đề thuộc về nguyên tắc.
Đồng thời, để thực hiện những vấn đề chiến lược, quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước, những vấn đề có tính nguyên tắc, thì sách lược cách
mạng, các hình thức, phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành phải hết sức
mềm dẻo, linh hoạt mới có thể đạt kết quả
2-Kết
hợp tính cách mạng với tính khoa học
Người
xưa nói: “Thiếu nhiệt hứng tất không thành đại sự”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Muốn lên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao”. Chính
cuộc đời Người là một cuộc phấn đấu quyết liệt, kiên cường chống đế quốc xâm
lược, chống tất cả các lực lượng ngăn cản con đường phát triển của dân tộc Việt
Nam. Học tinh thần nhiệt tình cách mạng Hồ Chí Minh, người cán bộ lãnh đạo,
quản lý cần say mê, tận tuỵ với công việc để tìm tòi, sáng tạo, đề ra những
phương án tối ưu nhằm thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
Song,
nhiệt tình cách mạng của người cán bộ lãnh đạo chỉ đem lại kết quả thiết thực
cho cuộc sống của nhân dân khi nó kết hợp chặt chẽ với tri thức khoa học và
tuân theo quy luật khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Đảng, cũng như
mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý cần "Phải có tinh thần khoa học và tinh thần
cách mạng rất cao". Cách mạng là một khoa học, chính trị là
một khoa học. Nghĩa là làm cách mạng, làm chính trị không chỉ cần một tinh thần
dám cách mạng, dám hy sinh mà còn phải có một lý thuyết khoa học, một phương
pháp khoa học mới thành công.
Nhiệt
tình cách mạng sẽ trở thành chủ quan, duy ý chí nếu thiếu tính khoa học. Nhiệt
tình cách mạng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ có hiệu quả cao khi họ
thực sự am hiểu công việc, tinh thông nghiệp vụ theo cương vị mình phụ trách.
Có nhiệt tình mà thiếu tri thức khoa học sẽ dẫn tới làm sai đường lối, chính
sách, hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến phá hoại một cách vô ý thức.
“Nhiệt tình cộng với dốt nát bằng đại phá hoại”.
Tính
khoa học trong phong cách làm việc phải được bảo đảm bằng tri thức khoa học, do
vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên các cán bộ lãnh đạo, quản lý: “Học hỏi là một
việc phải tiếp tục suốt đời… Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết
hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên
chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. “Bất
kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra
sức làm việc, cố gắng học tập để nâng cao trình độ văn hoá, tri thức và chính
trị của mình”.
3- Kết
hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách, dân chủ tập thể đi đôi với quyết
đoán khi cần thiết
Ở
cương vị người đứng đầu nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của phong
cách làm việc tập thể, dân chủ, là mẫu mực về nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, là người đứng đầu có tính quyết đoán, dám chịu trách nhiệm cá
nhân trước lịch sử, trước nhân dân, trước Đảng để quyết định những vấn đề có ý
nghĩa quyết định vận mệnh đất nước và cách mạng.
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần nguyên tắc tập thể lãnh đạo, bởi vì một người dù tài
giỏi đến đâu cũng không thể biết hết tất cả các vấn đề trong toàn xã hội hoặc
trong đơn vị, địa phương mình lãnh đạo. Cho nên, cần phát huy trí tuệ của tập
thể, của đông đảo quần chúng nhân dân nhằm hoàn thành sự nghiệp của một tập
thể, một đơn vị hay của cả cuộc cách mạng mà chỉ riêng cán bộ lãnh đạo, quản lý
không thể làm nổi. Có ý kiến khác nhau thì phải thảo luận để đi đến nhất trí.
Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Không nên dùng quyền lực hành chính bắt tất cả
phải theo ý kiến của mình. Lãnh đạo không phát huy trí tuệ tập thể thì sẽ dẫn
đến bao biện, độc đoán, chủ quan, chuyên quyền.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn phát huy nguyên tắc làm việc dân chủ, tập thể là: “Chúng
ta cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng cán bộ và đảng viên, bày
cho họ suy nghĩ, bày cho họ học hỏi quần chúng, cổ động họ tìm tòi, đề nghị,
làm những việc ích lợi cho quần chúng. Khi họ đã có ít nhiều sáng kiến, thì
giúp đỡ cho họ phát triển, khen ngợi cho họ thêm hăng hái. Như thế thì những
tính lười, tính "gặp chăng hay chớ" ngày càng bớt, mà sáng kiến và
tính hăng hái ngày càng nhiều thêm”.
Song,
phải tránh giáo điều khi thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Người chỉ rõ:
“Không phải vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải quyết được,
cũng đưa ra bàn - mới là tập thể lãnh đạo. Nếu làm như vậy, là hiểu tập thể
lãnh đạo một cách quá máy móc. Kết quả là cứ khai hội mà hết ngày giờ”.
Tập thể lãnh đạo, đồng thời, trong tổ chức thực hiện nghị quyết, trong công tác
quản lý phải có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, người nào việc nấy “Tập thể lãnh
đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”.
Có
ý thức tập thể cao, biết tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ, tôn trọng và
lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng không có tính quyết
đoán, không dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể thì không thể có những
quyết định kịp thời đáp ứng yêu cầu cuộc sống đòi hỏi và công việc cũng không
thể tiến triển được.
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu, lãnh đạo, quản lý cần có bản lĩnh cá nhân
phụ trách: “Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong những
hoàn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người
lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi
thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết kiên quyết, gan góc
không sợ khó khăn”. Đặc biệt trong những thời điểm then chốt,
người lãnh đạo, quản lý phải dám nghĩ, dám làm, quyết đoán, đúng như Người đã nói:
“Lạc nước, hai xe cũng thành vô dụng/Gặp thời, một tốt có thể thành công”.
Phong
cách lãnh đạo, quản lý đúng đắn là phải kết hợp giữa cách làm việc dân chủ tập
thể với tính quyết đoán, dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, quốc dân
đồng bào, kịp thời đưa ra những quyết định đúng. Những hiện tượng coi thường
tập thể, hoặc dựa dẫm, ỷ lại tập thể, không dám quyết đoán, không nêu cao trách
nhiệm cá nhân, nhất là của người đứng đầu các tổ chức đều làm trì trệ, suy yếu
năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý của cán bộ.
4-Thống
nhất giữa lý luận với thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm
Chủ
tịch Hồ Chí Minh là nhà triết học hành động, lý luận gắn liền thực tiễn, nói đi
đôi với làm, tư tưởng, phong cách, đạo đức thống nhất biện chứng với nhau.
Người khuyên cán bộ, đảng viên không được coi nhẹ lý luận, bởi vì: “Lý luận như
cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế.
Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Đồng thời,
phải khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, vì: "Có kinh nghiệm mà không có
lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ".
Song,
Người cũng khuyên cán bộ, đảng viên tránh bệnh giáo điều, sách vở, xa rời thực
tiễn. Lý luận cốt để vận dụng vào công việc thực tế. "Lý luận mà không
liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”(16).
Muốn
vận dụng được lý luận vào thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ, đảng
viên không chỉ học thuộc vài bộ sách về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nắm máy móc
từng câu chữ lý luận. Vấn đề là phải nắm tinh thần, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin. Học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học tập cái tinh thần xử
trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân
lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh thực tiễn ở nước ta. Người chủ trương “phải gắn lý luận với công tác thực
tế”. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng một mặt phải xuất phát từ tình hình cụ
thể, mặt khác lý luận còn phải có nhiệm vụ giải thích cho quần chúng hiểu và
thực hiện các chủ trương, chính sách đó. Như thế “lý luận mới không tách rời
thực tế”.
Cán
bộ lãnh đạo, quản lý phải nâng cao trình độ lý luận, phải “gắn liền công tác lý
luận với thực tiễn cách mạng”, phải “đi sát thực tế”, “phải liên hệ mật thiết
với quần chúng”. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là một bài học lớn
sáng rõ những nguyên tắc đạo đức mà Người vạch ra, trong đó có nguyên tắc nói
đi đôi với làm, phong cách lãnh đạo, quản lý là đường lối, quan điểm thống nhất
với đạo đức gắn liền với hành động. “Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao
nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy
kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không
nhằm mục đích nâng cao sản xuất”.
5- Phong
cách lãnh đạo, quản lý quần chúng
Chủ
tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ có niềm tin tưởng lớn nhất vào sức mạnh, năng
lực sáng tạo của nhân dân. Người là thiên tài trong việc huy động, tổ chức,
lãnh đạo nhân dân làm cách mạng vì lợi ích của nhân dân, đất nước. Đồng thời,
là người hiểu sâu sắc nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân và đã suốt đời vì nhân
dân mà làm cách mạng, vì nhân dân mà phục vụ. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là
lãnh tụ vĩ đại của nhân dân có phong cách làm việc quần chúng.
Người
khuyên các cán bộ lãnh đạo, quản lý trong mọi công tác của Đảng, của Chính phủ,
đoàn thể, phong cách làm việc tốt nhất là phải: Từ trong quần chúng ra, trở lại
nơi quần chúng. Nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi
phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem
nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng và làm nó thành ý kiến của quần
chúng và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó. Đồng thời nhân lúc
quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó có đúng hay không để tập
trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết
điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành. Cứ
như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước.
Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh là người đứng đầu Đảng, Nhà nước, nhưng Người không xa rời
quần chúng, mà có phong cách sống và làm việc sâu sát với thực tiễn, gần gũi
với nhân dân, thấu hiểu và chia sẻ mọi niềm vui và nỗi vất vả của người dân.
Với quần chúng, Người vừa là người đồng hành vừa là người dẫn dắt. Trong lãnh
đạo cách mạng, trong các bài nói, bài viết của mình, chưa bao giờ Người
"đao to búa lớn", nhưng mỗi lời nói, mỗi mong muốn của Người lại có
sức thuyết phục rất cao, đều nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của hàng triệu
trái tim quần chúng.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh dành nhiều công sức giáo dục cho các cán bộ lãnh đạo, quản lý
phong cách làm việc đi sâu, đi sát quần chúng, mong muốn họ trở thành những
người lãnh đạo, quản lý được dân tin, dân yêu, dân phục, dân theo, dân ủng hộ.
Người khuyên: "Cán bộ tỉnh phải đến tận các huyện, các xã. Cán bộ huyện
phải đến tận các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng
nói, tay làm, óc nghĩ. Để thiết thực điều tra, giúp đỡ, kiểm soát, rút kinh
nghiệm, trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ nông dân và học hỏi dân''.
Cán
bộ lãnh đạo, quản lý không bó mình trong văn phòng, bàn giấy; không tự cho mình
có địa vị cao hơn, không tạo cho mình vẻ quan cách, khác biệt dân. Cán bộ phải
liên hệ mật thiết với dân để tuyên truyền giáo dục dân, giúp dân hiểu đúng,
hiểu thấu các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, biến các chủ trương,
chính sách ấy thành hành động thực tiễn, phong trào cách mạng. Phải nắm được
tâm tư, nguyện vọng và cả những trăn trở, bức xúc của quần chúng, kịp thời phản
ánh để Đảng và Nhà nước có những điều chỉnh hợp lý trong chỉ đạo, điều hành.
Dân có tin Đảng, Nhà nước hay không; Đảng, Nhà nước có hiểu dân hay không, có
phát huy được sức mạnh của dân hay không phụ thuộc rất nhiều vào phong cách làm
việc và năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý.
6-Cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Bất kỳ ở địa vị nào, làm công tác gì, chúng
ta đều là đày tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng
ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền bù
xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy, chúng ta phải cố gắng thực hiện Cần,
Kiệm, Liêm, Chính". Do cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư mà Người trở thành nhà chính trị lớn không chỉ được nhân dân ta yêu quý, mà
còn được nhân dân tiến bộ trên thế giới kính trọng.
Cần
theo cách hiểu truyền thống là siêng năng, chăm chỉ. Song, nếu chỉ hiểu chữ cần
như thế, hơn nữa “Nếu chỉ 1 ngày cần mà 10 ngày không cần, thì cũng vô ích”,
thì dân tộc ta khó thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Học và làm theo tư tưởng, tấm
gương Hồ Chí Minh, nhân dân ta, mà trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải
thực hiện chữ Cần với nhiều nghĩa mới, hiện đại do Người mang lại và gương mẫu
thực hiện. Cần không phải là làm xổi. Cần còn có nghĩa là phải cố gắng hết sức
mình trong công tác, học tập trong suốt cả năm, trong cả đời mỗi người; có chí
tiến thủ, không sợ việc gì là khó. Điều cốt lõi là: "Cần, tức là tăng năng
suất trong công tác, bất kỳ công tác gì".
Trong
phong cách làm việc truyền thống, người Việt Nam còn thiếu sức bền, tính tổ
chức và kế hoạch. Cho nên, người lãnh đạo, quản lý phải rèn luyện phong cách
làm việc bền bỉ, có kế hoạch, biết phân công, đặc biệt là biết dùng người, nhất
là người có tài.
Đi
đôi với Cần là Kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng tiết kiệm không phải là keo
kiệt, bủn xỉn, coi đồng tiền bằng cái trống. Tiết kiệm là biết chi tiêu một
cách khoa học, có hiệu quả nhất. Việc không đáng tiêu, thì một xu cũng không
tiêu. Còn khi có việc đáng làm vì lợi ích cho đồng bào, Tổ quốc thì dù tốn bao
công của cũng vui lòng.
Muốn
tiết kiệm có kết quả tốt, thì phải khéo tổ chức. Thời gian còn quý hơn vàng
bạc. Thời gian sẽ có nhiều hơn, có ích hơn nếu cán bộ lãnh đạo, quản lý khéo tổ
chức sắp đặt công việc, quản lý thời gian, làm việc có kế hoạch.
Đi
đôi với tiết kiệm là chống lãng phí. Người lãnh đạo, quản lý phải đi đầu trong
chống lãng phí, xa xỉ. Chống lãng phí sức lao động, tiền của, thời giờ
của nhân dân, của cơ quan, xí nghiệp, đơn vị sản xuất thì năng suất lao động
mới cao, kinh tế-xã hội mới phát triển. Người vạch rõ: "Tham ô là trộm
cướp. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại
cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô".
Cán
bộ lãnh đạo, quản lý phải liêm khiết, không được tham ô của Nhà nước và của
nhân dân. Tâm trạng của quần chúng nhân dân ta hiện nay đối với cán bộ lãnh
đạo, quản lý có thể nói có phần nào đó giống như người xưa từng nhận định: Lại
không sợ ta nghiêm mà sợ ta Liêm; dân không phục ta tài mà phục ta Công; Công
thì sáng, Liêm thì uy.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh phân tích: Liêm là trong sạch, không tham lam. Tất cả mọi công
dân đều phải liêm. Song, cán bộ lãnh đạo, quản lý "Phải thực hành chữ Liêm
trước, để làm kiểu mẫu cho dân". Đồng thời, phải tuyên
truyền giáo dục cho nhân dân có hiểu biết, không chịu đút lót, thì dù cán bộ
không liêm cũng phải hoá ra liêm. "Quan tham vì dân dại". Dân phải
biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ lãnh đạo,
quản lý thực hiện chữ liêm. Còn, “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ
bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh phân tích: Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Cán bộ lãnh
đạo, quản lý đã cần, kiệm, liêm, nhưng còn phải chính mới là người có khí tiết
cao thượng, xứng đáng để dẫn dắt, điều khiển hành động của quần chúng nhân dân.
Người liêm chính không sợ hãi trước những uy lực đen tối, dũng cảm đấu tranh
với cái xấu, ủng hộ cái tốt, cái mới và tiến bộ. Có liêm, chính thì mới có thể
chí công vô tư. Công bằng, vì việc công, công tâm trong công tác tổ chức, cán
bộ, trong phân phối, bảo vệ pháp luật v.v… Công tâm thì nhân dân sẽ tin phục.
Liêm khiết thì cấp dưới và nhân dân mới không dám khinh nhờn. Để góp phần vào xây
dựng những đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phải kiên quyết
chống quan liêu, tham ô, lãng
phí.
Nếu
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý gương mẫu học tập và làm theo được 6 nguyên
tắc trong phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh thì cũng sẽ tạo nên được
những động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét