(ĐCSVN) - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho sự ra đời nền văn học cách mạng Việt Nam và giúp văn học cách mạng Việt Nam thể hiện đầy đủ các vai trò là người tuyên truyền, người cổ động tập thể với tinh thần chiến đấu, thấm nhuần tính đảng và tính nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh. (Ảnh tư liệu)
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh công khai tính đảng của văn học cách mạng Việt Nam là phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Người coi văn học là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là vũ khí sắc bén trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và xây dựng cuộc sống mới cho nhân dân. Theo Người, cũng như các lĩnh vực khác, văn học chúng ta chỉ có một đề tài xuyên suốt là: “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”[1]. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của văn học cách mạng Việt Nam: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh. Để làm trọn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng. Nói tóm tắt là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết”[2]. Do đó, văn học của ta phải có đường lối chính trị đúng, vì có đường lối chính trị đúng thì các nội dung và hình thức thể hiện văn học mới đúng được. Trên cơ sở đường lối chính trị đúng, văn học phải đi tiên phong trong đấu tranh không khoan nhượng với những gì đi ngược lại quy luật của lịch sử, vạch trần tính chất phản động, giả dối, bịp bợm của kẻ thù của dân tộc: “Muốn chỉnh đốn tổ chức, trước phải chỉnh đốn tư tưởng, phải đấu tranh chống những tư tưởng trái với giai cấp vô sản. Nhiều người tiểu tư sản thường dùng mọi phương pháp, cả phương pháp văn học và nghệ thuật, để trưng mình họ lên, để tuyên truyền chủ trương của họ, và yêu cầu người ta theo chủ trương tiểu tư sản trí thức đó mà cải tạo Đảng, cải tạo thế giới. Trước tình hình ấy, chúng ta phải quát to lên rằng: Các bạn ơi! Cách đó không xong! Giai cấp vô sản và đại chúng nhân dân không thể chiều các bạn được. Dựa theo các bạn, tức là dựa theo đại địa chủ, đại tư bản, và sẽ mắc vào nguy hiểm mất nước, mất Đảng, mất cả đầu. Chỉ có thể theo cách vô sản và đội tiên phong của nó mà cải tạo Đảng, cải tạo thế giới. Các đồng chí trong giới trí thức văn nghệ phải hiểu thấu tính nghiêm trọng trong sự tranh luận ấy, và ra sức đấu tranh với kẻ địch, với bầu bạn, với đồng chí, với tự mình. Sao cho mỗi một đồng chí đều trở nên vững chắc, sao cho Đảng ta về mặt tư tưởng và về mặt tổ chức đều thống nhất, đều vững vàng”[3]. Tính chiến đấu không chỉ nhằm tiến công vào kẻ thù của cách mạng, mà còn biểu dương những tấm gương tiêu biểu trong chiến đấu và lao động để cổ vũ mọi người hăng hái tham gia cách mạng.
Một mặt, Người yêu cầu “Các báo chí và văn nghệ phải điều tra tuyên truyền, khen ngợi những ưu điểm và phê bình những khuyết điểm trong việc phổ biến sáng kiến và kinh nghiệm. Đó là một nhiệm vụ vẻ vang của báo chí và văn nghệ thiết thực góp phần vào phong trào thi đua ái quốc”[4]. Mặt khác, Người cho rằng, nhà văn là một chiến sĩ cách mạng, “cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi văn nghệ sĩ phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, trau dồi tư tưởng, học tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động, phải luôn nâng cao trình độ văn hoá, rèn giũa nghiệp vụ, mài sắc ngòi bút của mình trong sự nghiệp cách mạng.
Việc xác định đúng đối tượng phục vụ của văn học cũng có nghĩa là nhà văn phải biết chọn lựa những nội dung gì nên viết, cái gì không nên viết. Viết “phục vụ nhân dân” thì nhất định phải chọn cái gì có lợi cho dân và phục vụ cách mạng.“Công, nông, binh và cán bộ là những người thưởng thức văn nghệ. Do đó đặt ra vấn đề: phải hiểu biết họ, quen thuộc họ. Muốn như vậy, phải công tác nhiều, vì có thế mới hiểu biết và quen thuộc các việc, hiểu biết và quen thuộc các hạng người trong cơ quan Đảng, cơ quan Chính phủ, ở nông thôn, ở nhà máy, ở bộ đội. Các đồng chí văn nghệ phải làm công tác văn nghệ, nhưng việc hiểu biết và quen thuộc người là công tác thứ nhất”[5]. Người còn khẳng định: “Muốn những tác phẩm của mình được quần chúng hoan nghênh, những người trí thức, văn nghệ cần phải biến hoá cảm tình và tư tưởng của mình, cần phải cải tạo. Nếu không biến hoá, không cải tạo, thì việc gì làm cũng không tốt, cũng không thuận...”[6]
Văn học là nhân học, vì cách mạng, vì nhân dân - đó vừa là mục đích, vừa là điều kiện, vừa là tiêu chuẩn đạo đức trong hoạt động văn học; đó cũng là tính đảng của văn học, là biểu hiện sự trung thành của văn học đối với Đảng, là cống hiến của văn học vào sự nghiệp vĩ đại của Đảng. Chính vì vậy, Người kết luận: “Mọi đảng viên cách mạng, mọi người cách mạng, mọi nhà văn nghệ cách mạng cần phải noi gương ông Lỗ Tấn: Làm “con trâu” của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân, suốt đời tận tụy, đến chết mới thôi”[7].
2. Ý nghĩa đối với đấu tranh với các biểu hiện phai mờ tính đảng trong văn học cách mạng Việt Nam hiện nay
Để chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch coi “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, trong đó có lĩnh vực văn học là mũi đột phá, hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận, tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảng viên và nhân dân, tiến tới chuyển hóa, xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Và điều đó sẽ dẫn đến hậu quả: chính trị khủng hoảng, kinh tế trì trệ, pháp luật kém hiệu lực, nền tảng xã hội lung lay, tạo mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch “tự tung tự tác” bằng những mưu mô, thủ đoạn để chuyển hóa, thay đổi chế độ. Tình trạng đó sẽ dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và trong xã hội, gây nên những tổn thất khó lường đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và vận mệnh của Đảng, chế độ. Kịch bản này đã từng xảy ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào những năm 90 của thế kỷ XX.
Với mưu đồ chuyển hóa hệ thống thang giá trị trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt Nam, chúng phủ nhận Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) khi cho rằng, đánh giá thành tựu 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) là hoàn toàn “thiếu cơ sở” vì thực tế cho thấy ở Việt Nam, đạo đức xã hội đang bị “băng hoại nghiêm trọng”, các quyền tự do báo chí, ngôn luận, biểu tình của người dân đã bị Đảng “khất nợ”, v.v. Tranh thủ những yếu tố khách quan xuất hiện trong bối cảnh nước ta đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các thế lực thù địch đẩy mạnh truyền bá các “giá trị” văn hóa, lối sống phương Tây, hệ tư tưởng tư sản; xóa bỏ truyền thống văn hóa, chuẩn mực đạo đức, lối sống tốt đẹp của dân tộc, làm phai nhạt bản sắc xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thông qua con đường hợp tác trên các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, quốc phòng - an ninh, báo chí, truyền thông, hội thảo, triển lãm, tài trợ,… để từng bước hình thành các tổ hợp, tập đoàn, câu lạc bộ, nhóm nhà báo, báo tư nhân, trang thông tin điện tử, cơ quan ngôn luận của “lực lượng dân chủ” ở Việt Nam. Lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, chúng xuyên tạc thực trạng xã hội, khoét sâu yếu kém, làm ra vẻ như ở Việt Nam đang có khủng hoảng về kinh tế - xã hội, tình trạng tham nhũng tràn lan, không kiểm soát được, v.v. Trên lĩnh vực văn học - nghệ thuật, báo chí, xuất bản, chúng ra sức vận động thành lập “Văn đoàn độc lập”,“Hội nhà báo độc lập”, “Công đoàn độc lập”; tán phát một số cuốn sách được xuất bản ở hải ngoại nhằm “bôi nhọ” đời tư của các cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng... Đáng chú ý là, chúng tăng cường liên kết giữa các tổ chức phản động trong nước với nước ngoài để dựng “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng, hình thành phe phái đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam; triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin như: internet, viễn thông, đài phát thanh nước ngoài, phát hành ấn phẩm, tờ rơi,… để đăng tin, bài, tán phát tài liệu chống phá ta, nhất là lúc đất nước ta có nhiều sự kiện lớn.
Có thể khẳng định, chiến lược “Diễn biến hòa bình”, mà trọng tâm là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh văn học là một âm mưu, thủ đoạn hết sức nguy hiểm, thâm độc. Xét về nội dung tuy không mới, nhưng về thủ đoạn, cách thức tiến hành thì chúng có sự điều chỉnh. Nguy hiểm hơn, hoạt động tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch tập trung vào đối tượng chủ yếu là thế hệ trẻ, các doanh nhân, trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo, học sinh, sinh viên; đi sâu vào vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống - nơi mà trình độ dân trí so với mặt bằng chung của cả nước còn thấp, đời sống vật chất, tinh thần còn nhiều khó khăn.
Bởi vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần đề cao cảnh giác, nhận diện đúng và chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng, bản sắc văn hóa của dân tộc thông qua quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tính đảng trong văn học cách mạng Việt Nam hiện nay theo đúng các kinh nghiệm mà Người đã đúc rút ra, đó là:
“Sau những cuộc thảo luận sôi nổi, giới văn nghệ đã đi đến kết luận chung như sau:
- Cho rằng sự phát triển của văn học nghệ thuật là một quá trình hoàn toàn tự phát, không cần đến sự lãnh đạo của Đảng - đó là một tư tưởng sai lầm, nguy hiểm, nó có thể đưa văn nghệ xa rời nhân dân, thậm chí phản bội nhân dân.
- Văn nghệ phải nhận rõ trách nhiệm của mình đối với Nhà nước và nhân dân, phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin để vũ trang mình. Phải kiên quyết chống những khuynh hướng phản dân chủ, phản chủ nghĩa xã hội trong giới văn nghệ.
- Phải hiểu rõ thời đại mới và đời sống cùng nguyện vọng của nhân dân. Tất cả các ngành văn học, nghệ thuật, điện ảnh, âm nhạc, múa nhảy, tuồng hát, vẽ... phải quần chúng hóa và dân chủ hóa.
- Văn nghệ phải xây dựng tác phong gian khổ, chất phác. Phải chống xa rời quần chúng, xa rời thực tế, xa rời chính trị, xa rời lao động. Sáng tác cũng phải “nhiều, nhanh, tốt, rẻ”.
Tóm lại: giai cấp lao động cần phải làm chủ văn hóa, nếu không thì giai cấp tư sản sẽ giành quyền làm chủ. Nội dung của văn nghệ phải phong phú, hình thức phải tươi đẹp để phục vụ chính trị, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và giữ gìn hòa bình thế giới”[8].
Những luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tính đảng trong văn học cách mạng Việt Nam đã, đang và sẽ là kim chỉ nam cho mọi hoạt động lãnh đạo nền văn học của Đảng ta trong thời kỳ mới./.
Chủ tịch Hồ Chí Minh. (Ảnh tư liệu)
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh công khai tính đảng của văn học cách mạng Việt Nam là phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Người coi văn học là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là vũ khí sắc bén trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và xây dựng cuộc sống mới cho nhân dân. Theo Người, cũng như các lĩnh vực khác, văn học chúng ta chỉ có một đề tài xuyên suốt là: “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”[1]. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của văn học cách mạng Việt Nam: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh. Để làm trọn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng. Nói tóm tắt là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết”[2]. Do đó, văn học của ta phải có đường lối chính trị đúng, vì có đường lối chính trị đúng thì các nội dung và hình thức thể hiện văn học mới đúng được. Trên cơ sở đường lối chính trị đúng, văn học phải đi tiên phong trong đấu tranh không khoan nhượng với những gì đi ngược lại quy luật của lịch sử, vạch trần tính chất phản động, giả dối, bịp bợm của kẻ thù của dân tộc: “Muốn chỉnh đốn tổ chức, trước phải chỉnh đốn tư tưởng, phải đấu tranh chống những tư tưởng trái với giai cấp vô sản. Nhiều người tiểu tư sản thường dùng mọi phương pháp, cả phương pháp văn học và nghệ thuật, để trưng mình họ lên, để tuyên truyền chủ trương của họ, và yêu cầu người ta theo chủ trương tiểu tư sản trí thức đó mà cải tạo Đảng, cải tạo thế giới. Trước tình hình ấy, chúng ta phải quát to lên rằng: Các bạn ơi! Cách đó không xong! Giai cấp vô sản và đại chúng nhân dân không thể chiều các bạn được. Dựa theo các bạn, tức là dựa theo đại địa chủ, đại tư bản, và sẽ mắc vào nguy hiểm mất nước, mất Đảng, mất cả đầu. Chỉ có thể theo cách vô sản và đội tiên phong của nó mà cải tạo Đảng, cải tạo thế giới. Các đồng chí trong giới trí thức văn nghệ phải hiểu thấu tính nghiêm trọng trong sự tranh luận ấy, và ra sức đấu tranh với kẻ địch, với bầu bạn, với đồng chí, với tự mình. Sao cho mỗi một đồng chí đều trở nên vững chắc, sao cho Đảng ta về mặt tư tưởng và về mặt tổ chức đều thống nhất, đều vững vàng”[3]. Tính chiến đấu không chỉ nhằm tiến công vào kẻ thù của cách mạng, mà còn biểu dương những tấm gương tiêu biểu trong chiến đấu và lao động để cổ vũ mọi người hăng hái tham gia cách mạng.
Một mặt, Người yêu cầu “Các báo chí và văn nghệ phải điều tra tuyên truyền, khen ngợi những ưu điểm và phê bình những khuyết điểm trong việc phổ biến sáng kiến và kinh nghiệm. Đó là một nhiệm vụ vẻ vang của báo chí và văn nghệ thiết thực góp phần vào phong trào thi đua ái quốc”[4]. Mặt khác, Người cho rằng, nhà văn là một chiến sĩ cách mạng, “cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi văn nghệ sĩ phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, trau dồi tư tưởng, học tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động, phải luôn nâng cao trình độ văn hoá, rèn giũa nghiệp vụ, mài sắc ngòi bút của mình trong sự nghiệp cách mạng.
Việc xác định đúng đối tượng phục vụ của văn học cũng có nghĩa là nhà văn phải biết chọn lựa những nội dung gì nên viết, cái gì không nên viết. Viết “phục vụ nhân dân” thì nhất định phải chọn cái gì có lợi cho dân và phục vụ cách mạng.“Công, nông, binh và cán bộ là những người thưởng thức văn nghệ. Do đó đặt ra vấn đề: phải hiểu biết họ, quen thuộc họ. Muốn như vậy, phải công tác nhiều, vì có thế mới hiểu biết và quen thuộc các việc, hiểu biết và quen thuộc các hạng người trong cơ quan Đảng, cơ quan Chính phủ, ở nông thôn, ở nhà máy, ở bộ đội. Các đồng chí văn nghệ phải làm công tác văn nghệ, nhưng việc hiểu biết và quen thuộc người là công tác thứ nhất”[5]. Người còn khẳng định: “Muốn những tác phẩm của mình được quần chúng hoan nghênh, những người trí thức, văn nghệ cần phải biến hoá cảm tình và tư tưởng của mình, cần phải cải tạo. Nếu không biến hoá, không cải tạo, thì việc gì làm cũng không tốt, cũng không thuận...”[6]
Văn học là nhân học, vì cách mạng, vì nhân dân - đó vừa là mục đích, vừa là điều kiện, vừa là tiêu chuẩn đạo đức trong hoạt động văn học; đó cũng là tính đảng của văn học, là biểu hiện sự trung thành của văn học đối với Đảng, là cống hiến của văn học vào sự nghiệp vĩ đại của Đảng. Chính vì vậy, Người kết luận: “Mọi đảng viên cách mạng, mọi người cách mạng, mọi nhà văn nghệ cách mạng cần phải noi gương ông Lỗ Tấn: Làm “con trâu” của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân, suốt đời tận tụy, đến chết mới thôi”[7].
2. Ý nghĩa đối với đấu tranh với các biểu hiện phai mờ tính đảng trong văn học cách mạng Việt Nam hiện nay
Để chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch coi “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, trong đó có lĩnh vực văn học là mũi đột phá, hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận, tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảng viên và nhân dân, tiến tới chuyển hóa, xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Và điều đó sẽ dẫn đến hậu quả: chính trị khủng hoảng, kinh tế trì trệ, pháp luật kém hiệu lực, nền tảng xã hội lung lay, tạo mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch “tự tung tự tác” bằng những mưu mô, thủ đoạn để chuyển hóa, thay đổi chế độ. Tình trạng đó sẽ dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và trong xã hội, gây nên những tổn thất khó lường đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và vận mệnh của Đảng, chế độ. Kịch bản này đã từng xảy ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào những năm 90 của thế kỷ XX.
Với mưu đồ chuyển hóa hệ thống thang giá trị trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt Nam, chúng phủ nhận Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) khi cho rằng, đánh giá thành tựu 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) là hoàn toàn “thiếu cơ sở” vì thực tế cho thấy ở Việt Nam, đạo đức xã hội đang bị “băng hoại nghiêm trọng”, các quyền tự do báo chí, ngôn luận, biểu tình của người dân đã bị Đảng “khất nợ”, v.v. Tranh thủ những yếu tố khách quan xuất hiện trong bối cảnh nước ta đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các thế lực thù địch đẩy mạnh truyền bá các “giá trị” văn hóa, lối sống phương Tây, hệ tư tưởng tư sản; xóa bỏ truyền thống văn hóa, chuẩn mực đạo đức, lối sống tốt đẹp của dân tộc, làm phai nhạt bản sắc xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thông qua con đường hợp tác trên các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, quốc phòng - an ninh, báo chí, truyền thông, hội thảo, triển lãm, tài trợ,… để từng bước hình thành các tổ hợp, tập đoàn, câu lạc bộ, nhóm nhà báo, báo tư nhân, trang thông tin điện tử, cơ quan ngôn luận của “lực lượng dân chủ” ở Việt Nam. Lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, chúng xuyên tạc thực trạng xã hội, khoét sâu yếu kém, làm ra vẻ như ở Việt Nam đang có khủng hoảng về kinh tế - xã hội, tình trạng tham nhũng tràn lan, không kiểm soát được, v.v. Trên lĩnh vực văn học - nghệ thuật, báo chí, xuất bản, chúng ra sức vận động thành lập “Văn đoàn độc lập”,“Hội nhà báo độc lập”, “Công đoàn độc lập”; tán phát một số cuốn sách được xuất bản ở hải ngoại nhằm “bôi nhọ” đời tư của các cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng... Đáng chú ý là, chúng tăng cường liên kết giữa các tổ chức phản động trong nước với nước ngoài để dựng “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng, hình thành phe phái đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam; triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin như: internet, viễn thông, đài phát thanh nước ngoài, phát hành ấn phẩm, tờ rơi,… để đăng tin, bài, tán phát tài liệu chống phá ta, nhất là lúc đất nước ta có nhiều sự kiện lớn.
Có thể khẳng định, chiến lược “Diễn biến hòa bình”, mà trọng tâm là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh văn học là một âm mưu, thủ đoạn hết sức nguy hiểm, thâm độc. Xét về nội dung tuy không mới, nhưng về thủ đoạn, cách thức tiến hành thì chúng có sự điều chỉnh. Nguy hiểm hơn, hoạt động tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch tập trung vào đối tượng chủ yếu là thế hệ trẻ, các doanh nhân, trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo, học sinh, sinh viên; đi sâu vào vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống - nơi mà trình độ dân trí so với mặt bằng chung của cả nước còn thấp, đời sống vật chất, tinh thần còn nhiều khó khăn.
Bởi vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần đề cao cảnh giác, nhận diện đúng và chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng, bản sắc văn hóa của dân tộc thông qua quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tính đảng trong văn học cách mạng Việt Nam hiện nay theo đúng các kinh nghiệm mà Người đã đúc rút ra, đó là:
“Sau những cuộc thảo luận sôi nổi, giới văn nghệ đã đi đến kết luận chung như sau:
- Cho rằng sự phát triển của văn học nghệ thuật là một quá trình hoàn toàn tự phát, không cần đến sự lãnh đạo của Đảng - đó là một tư tưởng sai lầm, nguy hiểm, nó có thể đưa văn nghệ xa rời nhân dân, thậm chí phản bội nhân dân.
- Văn nghệ phải nhận rõ trách nhiệm của mình đối với Nhà nước và nhân dân, phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin để vũ trang mình. Phải kiên quyết chống những khuynh hướng phản dân chủ, phản chủ nghĩa xã hội trong giới văn nghệ.
- Phải hiểu rõ thời đại mới và đời sống cùng nguyện vọng của nhân dân. Tất cả các ngành văn học, nghệ thuật, điện ảnh, âm nhạc, múa nhảy, tuồng hát, vẽ... phải quần chúng hóa và dân chủ hóa.
- Văn nghệ phải xây dựng tác phong gian khổ, chất phác. Phải chống xa rời quần chúng, xa rời thực tế, xa rời chính trị, xa rời lao động. Sáng tác cũng phải “nhiều, nhanh, tốt, rẻ”.
Tóm lại: giai cấp lao động cần phải làm chủ văn hóa, nếu không thì giai cấp tư sản sẽ giành quyền làm chủ. Nội dung của văn nghệ phải phong phú, hình thức phải tươi đẹp để phục vụ chính trị, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và giữ gìn hòa bình thế giới”[8].
Những luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tính đảng trong văn học cách mạng Việt Nam đã, đang và sẽ là kim chỉ nam cho mọi hoạt động lãnh đạo nền văn học của Đảng ta trong thời kỳ mới./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét