Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2020

ANH HÙNG LLVTND - LIỆT SỸ LÊ ANH XUÂN - NHÀ THƠ - NGHỆ SĨ - BIỂU TƯỢNG SÁNG NGỜI CỦA CHỦ NGHĨA ANH HÙNG CÁCH MẠNG TRONG THỜI ĐẠI HỒ CHÍ MINH

 Nhắc đến Lê Anh Xuân là nhắc đến một trái tim lớn, một nhân cách cao cả của một nhà thơ - chiến sỹ - nghệ sĩ thấm đẫm phẩm chất chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

Lê Anh Xuân tên thật là Ca Lê Hiến, sinh ngày 5 tháng 6 năm 1940 tại thị xã Bến Tre, nguyên quán ở xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày (nay thuộc huyện Mỏ Cày Bắc), tỉnh Bến Tre. Đất nước chia cắt, ông theo cha tập kết ra Bắc năm 1954, theo học ngành sử tại Trường Đại học tổng hợp Hà Nội.
Tốt nghiệp đại học năm 1960, Lê Anh Xuân được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở khoa Sử và được cử đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài nhưng ông từ chối để trở về quê hương chiến đấu. Cũng từ quyết định này bài thơ đầu tay của ông "Nhớ mưa quê" ra đời và đạt giải nhì toàn quốc cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh cách mạng do Tạp chí Văn Nghệ TW tổ chức.
Tháng 12 năm 1964, Lê Anh Xuân tình nguyện vào Nam, sáng tác và phục vụ chiến đấu ở Tiểu ban Giáo dục thuộc Ban tuyên Huấn Trung ương Cục Miền Nam. Tháng 7 năm 1965, ông chuyển sang công tác ở Hội văn Nghệ Giải Phóng. Năm 1966, Lê Anh Xuân được kết nạp vào Đảng. Từ đây, ông liên tục có mặt trên khắp chiến trường Nam Bộ, vừa chiến đấu, vừa sáng tác văn học phục vụ Cách mạng. Ông đã hi sinh anh dũng trong một trận đánh chống càn tại mặt trận ở ven thành phố Sài Gòn (nơi ông đã sáng tác bài thơ cuối cùng "Dáng đứng Việt Nam") vào ngày 24/5/1968, khi mới 28 tuổi đời và 2 năm tuổi Đảng. Ông được Chủ tịch nước truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001, danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân năm 2011. Tên Nhà thơ Lê Anh Xuân đã được đặt cho một con đường tại Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh và Tp. Đồng Hới, Quảng Bình.


Trong suốt quảng thời gian học tập và chiến đấu của ông, nhất là thời gian ở chiến trường, ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam ba tập thơ, một trường ca, một tập văn xuôi. Bài thơ " Dáng đứng Việt Nam" (Lời đề nguyên bản: "Anh giải phóng quân" được ông sáng tác vào tháng 3/1968, in trong tập thơ "Hoa Dừa" xuất bản lần đầu năm 1972, được nhạc sĩ Chu Chí Vũ phổ nhạc và phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam trong những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, thể hiện sâu sắc khí phách hiên ngang của những người trực tiếp cầm súng chiến đấu giải phóng đất nước; khơi dậy tinh thần yêu nước của người Việt Nam trong giai đoạn khó khăn, oanh liệt nhất. Hình ảnh anh giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất là giá trị thiêng liêng của dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ 20 - một thế kỷ cả nước ra trận, cả nước chiến đấu với ngoại xâm thống nhất đất nước, viết tiếp những trang sử vẻ vang, xây nên những con người vĩ đại trong dòng chảy lịch sử của dân tộc Việt Nam. "Dáng đứng Việt Nam” sống mãi trong lòng dân tộc, trong những ngày tháng tư lịch sử này.
Ông xứng đáng là biểu tượng của người lính - nghệ sỹ hội tụ và nâng tầm giá trị phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ", biểu tượng sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh./.
#Lão nông tri điền Phạm Huy Đức
"BÀI THƠ: "DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM"
"Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân"
(3-1968 - Lê Anh Xuân,)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét